Popular Products
Recent Products
Thị trường chứng khoán NEU
- Lãnh đạo bộ môn:
Tên bộ môn: Bộ môn Thị trường Chứng khoán
Trưởng bộ môn: PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Huệ
Phó trưởng bộ môn: TS. Lê Thị Hương Lan
Sơ lược quá trình phát triển: Bộ môn Thị trường Chứng khoán Khoa Ngân hàng Tài chính được thành lập theo Quyết định số 1748/QĐ-TCCB ngày 14 tháng 6 năm 2006 của Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế Quốc dân trên cơ sở tách bộ môn Tài chính quốc tế và Thị trường Chứng khoán. Thành viên ban đầu của Bộ môn gồm có: Cố PGS.TS Vương Trọng Nghĩa; PGS.TS. Trần Đăng Khâm, TS. Lê Trung Thành; TS. Lê Thị Hương Lan; TS. Nguyễn Đức Hiển; Th.S Tô Đức Hải; Th.S Lê Thị Hải Trà; Th.S Nguyễn Hương Giang.
Bộ môn bắt đầu giảng dạy môn Thị trường chứng khoán từ năm 1991 và bắt đầu đào tạo chuyên ngành Thị trường Chứng khoán từ khóa 42 vào năm 2000. Ngoài ra bộ môn còn chịu trách nhiệm giảng dạy các môn học: Phân tích đầu tư chứng khoán, Môi giới chứng khoán, Phát hành và kinh doanh chứng khoán, Chứng khoán phái sinh, Chứng khoán thu nhập cố định, Tài chính hành vi. Lĩnh vực nghiên cứu của các thành viên trong bộ môn đa dạng và gồm có cả thị trường chứng khoán, ngân hàng và tài chính doanh nghiệp.
- Danh sách giảng viên
- PGS.TS Nguyễn Thị Minh Huệ
- TS. Lê Hương Lan
- PGS.TS Trần Đăng Khâm
- TS. Phạm Việt Hùng
- TS. Vũ Thị Thúy Vân
- ThS. Nguyễn Ngọc Trâm
- ThS. Lê Hoàng Anh
- ThS. Nguyễn Hương Giang
- Danh sách các môn học của bộ môn phụ trách
- Thị trường chứng khoán
- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
- Phát hành và kinh doanh chứng khoán
- Phân tích và Đầu tư chứng khoán
- Thị trường chứng khoán
- Thông tin liên lạc:
Địa chỉ liên hệ: Phòng 912 + 913 Tầng 9 - Nhà A1 - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - 207 Giải Phóng, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại: (+844) 3628 2080
Fax: (+844) 3628 5555
Video liên quan
Hay tìm một ví dụ thực tiễn trên thị trường Việt Nam về một thương vụ M&A theo chiều dọc
Tin Mới M&A
M&A và Các thương vụ đình đám tại Việt Nam
Tin Mới M&A
M&A và Các thương vụ đình đám tại Việt Nam
Giai đoạn 2016 2018, thị trường Việt Nam đã chứng kiến hàng loạt thương vụ M&A đình đám như Kido thâu tóm 65% dầu thực vật Tường An, Holcim Việt Nam về tay SCCC, VIB thâu tóm ngân hàng ngoại CBA,và mới đây nhất là Grab mua lại Uber tại thị trường Đông Nam Á.
M&Alà viết tắt của 2 cụm từMergers (Sáp nhập) và Acquisitions (Mua lại). Hoạt độngM&A là hoạt động giành quyền kiểm soát doanh nghiệpthông qua hình thức sáp nhập hay mua lại 1 phần (số cổ phần) hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác.
Mục đích của một thương vụM&A không đơn thuần chỉ là sở hữu cổ phần, mà nhằm mục đích tham gia và quyết định các vấn đề quan trọng, tác động đến hoạt động kinh doanh, hoạt động quản trị của doanh nghiệp bị sáp nhập/mua lại.
Các hình thức M&A
Việc sáp nhập và mua lại có thể được phân loại theo tính chất của việc sáp nhập. Có 3 hình thức M&A cơ bản, bao gồm:M&A theo chiều ngang, M&A theo chiều dọc và M&A kết hợp.
M&A theo chiều ngang (Horizontal): là hình thức mua bán, sáp nhập giữa các doanh nghiệp cung cấp các dòng sản phẩm và dịch vụ giống nhau hoặc tương tự cho người tiêu dùng cuối cùng, có nghĩa là cùng ngành và ở cùng một giai đoạn sản xuất. Các công ty, trong trường hợp này, thường là đối thủ cạnh tranh trực tiếp.
M&A theo chiều dọc (Vertical): được thực hiện với mục đích kết hợp hai công ty có cùng chuỗi giá trị sản xuất cùng một dịch vụ và dịch vụ tốt, nhưng khác biệt duy nhất là giai đoạn sản xuất mà họ đang hoạt động. Ví dụ, nếu một cửa hàng quần áo sáp nhập một nhà máy dệt, điều này được gọi là sáp nhập theo chiều dọc, vì ngành này giống nhau, tức là quần áo, nhưng giai đoạn sản xuất khác nhau. Loại sáp nhập này thường được thực hiện để đảm bảo cung cấp các mặt hàng thiết yếu và tránh sự gián đoạn trong nguồn cung cấp. Nó cũng được thực hiện để hạn chế cung cấp cho các đối thủ cạnh tranh, do đó giúp nâng cao doanh thu và lợi nhuận, giảm chi phí trung gian.
M&A kết hợp (Conglomerate): là hình thức mua bán và sáp nhập để hình thành nên các tập đoàn. Việc sáp nhập kiểu tập đoàn diễn ra giữa các công ty phục vụ cùng một khách hàng trong một ngành cụ thể, nhưng họ không cung cấp các sản phẩm và dịch vụ giống nhau. Sản phẩm của họ có thể được bổ sung, sản phẩm đi cùng nhau, nhưng về mặt kỹ thuật không phải là sản phẩm giống nhau. Ví dụ, nếu một công ty sản xuất chăn-ga-gối-đệm sáp nhập với một công ty sản xuất giường, điều này sẽ được gọi là sáp nhập tập đoàn, vì đây là những sản phẩm bổ sung, thường được mua cùng nhau. Chúng thường được thực hiện để tạo thuận lợi cho người tiêu dùng, vì sẽ dễ dàng hơn khi bán những sản phẩm này lại với nhau.
Ngoài ra, điều này sẽ giúp công ty đa dạng hóa, do đó lợi nhuận cao hơn. Việc bán một trong những sản phẩm này cũng sẽ khuyến khích việc bán một sản phẩm khác, do đó sẽ tăng doanh thu cho công ty nếu họ tăng doanh số bán sản phẩm của mình. Điều này sẽ cho phép doanh nghiệp cung cấp một điểm mua sắm, tiện lợi cho người tiêu dùng. Hai công ty trong trường hợp này được liên kết theo cách này hay cách khác. Loại sáp nhập này tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào các lĩnh vực khác của ngành, giảm rủi ro và cung cấp quyền truy cập vào các tài nguyên và thị trường không có sẵn trước đó.
Điều này thường được thực hiện để đa dạng hóa vào các ngành công nghiệp khác, giúp giảm thiểu rủi ro, tiết kiệm chi phí gia nhập thị trường.
Quy trình M&A
Quá trình M&A có nhiều bước và trong thực tế thường có thể mất từ 6 tháng đến vài năm để hoàn thành. MarketingAI sẽ phác thảo quy trình M&A từ đầu đến cuối gồm 10 bước như sau:
Bước 1: Xây dựng chiến lược M&A
Đầu tiên, trước khi bước vào quá trình M&A, đầu tiên người quản lý là Giám đốc điều hành hay lãnh đạo cấp cao cần xây dựng, phát triển chiến lược M&A rõ ràng về những gì họ mong muốn đạt được từ việc mua lại và kế hoạch, phương thức để đạt được mục tiêu đó.
Bước 2: Xác định tiêu chí tìm kiếm M&A
Xác định các tiêu chí chính để xác định các công ty mục tiêu tiềm năng (ví dụ: lợi nhuận, vị trí địa lý hoặc cơ sở khách hàng)
Bước 3: Đánh giá các mục tiêu tiềm năng
Người quản lý sử dụng các tiêu chí tìm kiếm được xác định của họ để tìm kiếm và sau đó đánh giá các công ty mục tiêu tiềm năng từ danh sách đã được lập.
Bước 4: Bắt đầu lập kế hoạch mua lại
Người thâu tóm liên hệ với một hoặc nhiều công ty đáp ứng tiêu chí tìm kiếm của mình và dường như cung cấp giá trị tốt; mục đích của các cuộc hội thoại ban đầu là để có thêm thông tin và để xem mức độ phù hợp của việc sáp nhập hoặc mua lại công ty mục tiêu là
Bước 5: Thực hiện phân tích định giá
Giả sử các liên lạc và cuộc hội thoại ban đầu diễn ra tốt đẹp, người thâu tóm yêu cầu công ty mục tiêu cung cấp thông tin đáng kể (tài chính hiện tại, v.v.) để cho người thâu tóm đánh giá thêm mục tiêu, cả về doanh nghiệp và mục tiêu mua lại phù hợp
Bước 6: Đàm phán
Sau khi sản xuất một số mô hình định giá của công ty mục tiêu, người thâu tóm phải có đủ thông tin để cho phép nó xây dựng một đề nghị hợp lý; Khi đề xuất ban đầu đã được trình bày, hai công ty có thể thương lượng các điều khoản chi tiết hơn
Bước 7: Thẩm định
Sự thẩm định nhằm mục đích xác nhận hoặc điều chỉnh giá trị của công ty mục tiêu bằng cách tiến hành kiểm tra và phân tích chi tiết mọi khía cạnh của hoạt động của công ty mục tiêu các chỉ số tài chính, tài sản và nợ, khách hàng, nguồn nhân lực,
Bước 8: Hợp đồng mua bán
Khi không có vấn đề lớn phát sinh, bước tiếp theo là thực hiện hợp đồng mua bán cuối cùng; các bên sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về loại thỏa thuận mua hàng, cho dù đó là mua tài sản hay mua cổ phần.
Bước 9: Tài chính
Khi thỏa thuận ký kết, các nhà đầu tư thường nhận được một cổ phiếu mới trong danh mục đầu tư của họ cổ phiếu mở rộng của công ty mua lại. Đôi khi các nhà đầu tư sẽ nhận được cổ phiếu mới xác định một thực thể doanh nghiệp mới được tạo ra bởi thỏa thuận M&A. Trong một vụ sáp nhập mà một công ty mua một công ty khác, công ty mua lại sẽ thanh toán cho cổ phiếu của công ty mục tiêu bằng tiền mặt, cổ phiếu hoặc cả hai.
Bước 10: Kết thúc giao dịch
Kết thúc giao dịch, các nhóm quản lý của mục tiêu và người thâu tóm làm việc cùng nhau trong quá trình sáp nhập hai công ty. Người mua và Người bán thường có một số điều chỉnh tài chính sau khi kết thúc và Người mua phải tích hợp công ty được mua lại vào công ty mẹ hoặc đảm bảo rằng họ có thể tiếp tục hoạt động như một doanh nghiệp độc lập.
Các vụ M&A tại Việt Nam
Theo thống kê có trên 4.000 thương vụ, với tổng giá trị mua bán và sáp nhập (M&A) đạt 48,8 tỷ USD được thực hiện trong giai đoạn 2009-2018. Hãy điểm qua một vài những thương vụ M&A đình đám mới nhất trong thời gian qua tại nước ta.
ThaiBev và Sabeco
Thương vụ M&A giữa ThaiBev Một trong những công ty nước giải khát lớn của Đông Nam Á, đồng thời là công ty giải khát lớn nhất Thái Lan với Tổng công ty Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn (SABECO). Đây là thương vụ M&A lớn nhất từ trước đến nay của ngành bia Châu Á với giá trị 4,8 tỷ USD từ việc ThaiBev mua lại 53,59% cổ phần của Sabeco.
Đây là bước đi nhằm chiếm lĩnh thị trường Việt Nam của ông lớn ngành giải khát Thái Lan khi Sabeco là một trong những thương hiệu bia nổi tiếng nước ta với 41% thị phần.
GIC Private Limited và Vinhomes
Tháng 4/2018, quỹ đầu tư GIC Private Limited của Chính phủ Singapore hoàn thành xong thương vụ M&A với Vinhomes một công ty thành viên khác thuộc tập đoàn Vingroup, với giá trị thương vụ là 1,3 tỷ USD. Đây là một thương vụ lớn trong lĩnh vực Bất động sản đầu năm nay. Theo đó, GIC thực hiện thương vụ được diễn ra với 2 hình thức là đầu tư mua cổ phần của Vinhomes và cung cấp một công cụ nợ cho Vinhomes (như khoản cho vay) để thực hiện các dự án. Credit Suisse (Singapore) Limited là đơn vị tư vấn của thương vụ này.
Central Group Big C
Central Group Tập đoàn đến từ Thái Lan đã đầu tư 1,14 tỷ USD để sở hữu Big C Việt Nam vào quý 2/2016 để thâu tóm thị phần mảng bán lẻ tại Việt Nam. Trước đó, Central Group đã mua lại tỷ lệ cổ phần chi phối với Nguyễn Kim, hệ thống phân phối hàng điện tử hàng đầu; và sau đó Nguyễn Kim là đơn vị mua lại Zalora Việt Nam.
Để nhận những thông tin hữu ích mới nhất từ Kiểm Toán Kroize
Δ
Chúng tôi luôn cam kết bảo mật dữ liệu cá nhân khách hàng theo chính sách bảo mật của chúng tôi..
Video liên quan
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo kinh tế vi mô
Thị trường là nơi mà người mua và người bán gặp nhau. Họ có thể gặp nhau trực tiếp, qua điện thọai, qua internet, qua người trung gian,Các đối tượng tham gia thị trường là doanh nghiệp với vai trò mua ở thị trường yếu tố đầu vào và bán ở thị trường yếu tố đầu ra. Người lao động tham gia thị trường với vai trò bán ở thị trường đầu vào và mua ở thị trường đầu ra. Chính phủ thu nhập từ thuế của DN và hộ gia đình, chi tiêu cho mua hàng hóa/dịch vụ và trợ cấp.
Các thành viên tham gia thị trường đều với mục đích tối đa hóa lợi ích mà họ nhận được. Người lao động muốn bán sức lao động với giá cao và mua hàng hóa để có được lợi ích từ đó cao nhất. Doanh nghiệp làm sao mua được tư bản, sức lao động với giá thấp và bán được hàng hóa với giá cao. Chính phủ tối đa hóa phúc lợi xã hội, đảm bảo tính công bằng.
Cơ cấu thị trường bao gồm hai loại là Thị trường cạnh tranh hoàn hảo và Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: là thị trường phổ biến ngày nay trình bày ở P23
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà 1.Có nhiều người mua và bán độc lập nhau; 2.Sản phẩm là đồng nhất; 3.Thông tin là hoàn hảo và 4.Việc gia nhập và rút ra có chi phí thấp
Hãy xét một cái chợ cóc, trong chợ có những người bán với các hàng hóa là rau, thịt, hoa quả, đồ tạp hóa, trông xe,Mỗi người bán bán nhiều loại hàng và có nhiều người bán bán cùng một loại hàng.
Tại đây thị trường rau muống là thị trường cạnh tranh hoàn hảo:
1. Có nhiều người bán rau và cũng có rất nhiều người mua rau
2. Rau là đồng nhất: mớ rau ở hàng này và hàng khác không có sự khác biệt
3. Thông tin là hoàn hảo: những người bán biết rõ giá bán của nhau, họ cũng biết đặc điểm của những người hay mua ở chợ, thậm chí còn tạo mối quan hệ quen biết với họ. Những người mua cũng biết là giá bao nhiêu là mua được, họ biết các bà hàng xóm mua mớ rau đó giá bao nhiêu. Trước khi mua mớ rau họ cũng có thể sờ mó mớ rau để biết nó tươi hay nó héo.
4. Việc gia nhập thị trường khá đơn giản, người bán sẽ lấy hàng ở chợ đầu mối với số vốn không tới 1 tr đồng; tới cuối ngày hôm đó người bán đã thu hồi đủ vốn cùng với số tiền lãi. Ngày hôm sau người bán có thể thôi không bán rau nữa để chuyển sang bán cafe, bán cafe được 1 tháng thấy thua lỗi lại quay lại bán rau.
Tuy nhiên mỗi bà bán hàng, bên cạnh rau muống (là sạp rau nào cũng có) thì còn những món nông sản độc kiểu như hoa chuối, lá mơ, ..những hàng hóa này lại thuộc dạng độc quyền bán (nhưng không phải hàng hóa thiết yếu như điện).
Trong một chợ sẽ có những người bán tham gia vào thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cũng có những người bán không tham gia vào thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Trong những hàng hóa mà một người bán muốn bán thì cũng có những hàng hóa bán trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và không.
Lần sau nếu bạn đi chợ hãy quan sát và phân loại mỗi loại hàng hóa vào các thị trường tương ứng. Nếu hàng hóa hầu hết mọi người đều rõ, có nhiều người bán, giá cả ít thay đổi thì chắc chắn đó là sản phẩm thuộc về thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Hầu hết những thứ ở chợ truyền thống đều thuộc dạng này. Nhưng nếu vào siêu thị thì vấn đề lại khác; bản chất siêu thị là một dạng độc quyền bán gói gọn các sản phẩm nằm trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Ví dụ khi bạn vào siêu thị Vinmart, tất cả các sản phẩm trưng bày đều có chiến thuật; chỉ có duy nhất một mớ rau muống đó; và mớ đó được gói không theo chuẩn chợ truyền thống khiến bạn mù mờ trong so sánh giá. Họ cũng sẽ tung ra đặc điểm an toàn thực phẩm, dịch vụ thanh toán chuyển hàng, điều hòa mát rượi, chỗ vui chơi cho trẻ con trong lúc bố mẹ mua sắm, để tạo sự khác biệt.
Thực tế bạn sẽ thấy là thị trường cạnh tranh không hoàn hảovà thị trường cạnh tranh hoàn hảo trộn lẫn vào nhau rất phổ biến. Grab là một ví dụ; grab tạo ra thị trường cạnh tranh hoàn hảo xe ôm nhờ rõ ràng quãng đường, giá tiền, vô số xe tham gia và vô người có nhu cầu di chuyển. Nó khiến cho người lái xe và đi xe thay vì tù mù như hồi xe ôm truyền thống thì giờ mọi thứ đều minh bạch; đang từ thị trường không hoàn hảo chuyển sang thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Bản thân Grab lại là một hãng độc quyền và nó có quyền set một % trích lại cao mà bên cung cấp ít có sự lựa chọn khác; nếu sang công ty cạnh tranh như Vietgo thì khách ít hơn.
Một người bán tham gia vào thị trường cạnh tranh hoàn hảo gọi là hãng cạnh tranh hoàn hảo. Hãng cạnh tranh hoàn hảo có những hành vi điển hình sau:
Hãng không có sức mạnh thị trường: do có rất nhiều người bán và hãng chỉ là một trong số đó nên sản lượng của hãng tăng hay giảm không ảnh hưởng gì tới giá cả thị trường.
Điều này giúp ta có một lưu ý là nếu như mặc dù thị trường có nhiều người bán và nhiều người mua nhưng lại có một vài người bán và một vài người mua có sản lượng chiếm đa số khiến cho việc tăng giảm sản lượng của nó ảnh hưởng tới cả thị trường thì không thể gọi là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo được.
Một hãng cạnh tranh hoàn hảo sẽ quyết định sản lượng tại điểm mà chênh lệch giữa doanh thu và chi phí là lớn nhất
Ở hình bên, do giá bán là không đổi theo sản lượng nên đường doanh thu là một đường thẳng tuyến tính. Trong thực tế thì thường giá bán là cố định trong những khoảng thời gian như tuần, tháng, năm nên xét trong ngắn hạn thì đường doanh thu bán hàng của mọi công ty là đường thẳng tuyến tính.
Đường chi phí cũng tuân theo quy luật của các doanh nghiệp nói chung đó là đường cong có độ dốc ngày càng tăng.
Tại gốc tọa độ khi chưa sản xuất một đơn vị hàng hóa nào (q=0) thì không có doanh thu nhưng đã có chi phí cố định (FC). Tại A là khi doanh thu bằng với chi phí, gọi là điểm hòa vốn.
Tại B là khi mà chênh lệch giữa doanh thu và chi phí là lớn nhất thì đây là điểm nên dừng lại. Tại điểm B thì doanh thu cận biên MR bằng với chi phí cận biên MC; mà MR=P -> tại điểm này MC=P. Có nghĩa là tại điểm mà chi phí cận biên bằng với giá bán thì doanh nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa.
Nếu như tiếp tục sản xuất, doanh nghiệp sẽ tới điểm C là khi mà doanh thu lại bằng với chi phí và bắt đầu lỗ.
Khi nhìn trên đồ thị doanh thu và chi phí ta có được cái nhìn vĩ mô đó là ta biết doanh thu và chi phí nhưng lại rất khó xác định được các điểm A, B và C. Khi không xác định được các điểm này thì cũng không thể có được các quyết định tương ứng được ( tăng, giảm hay dừng sản xuất)
Đồ thị bên cạnh là đồ thị thể hiện Chi phí cận biên MC, Tổng chi phí bình quân ATC, doanh thu cận biên MR. Vì cứ bán thêm được một sản phẩm thì doanh thu tăng tương ứng là giá bán P vì vậy đường MR trong trường hợp này là đường thẳng song song với trục hoành.
Giao điểm của MR và MC là điểm B. Điểm B là điểm mà doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận cao nhất. Lợi nhuận đó bằng diện tích của hình BEFP.
Nếu doanh nghiệp đang ở quá điểm B thì giảm sản lượng sẽ làm tăng lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp chưa tới B thì tăng sản lượng làm tăng lợi nhuận
Trong ngắn hạn có những tình huống mà chi phí cố định quá cao gây ra hiện tượng lợi nhuận âm ví dụ như boxit ở Tân Rai hay nhà máy lọc dầu dung Quất. Khi đó đường ATC bị đẩy lên cao hơn cả đường doanh thu cận biên MR.
Điều này khiến cho doanh nghiệp càng sản xuất càng thấy lỗ. Tuy nhiên không phải cứ lỗ là đóng cửa vì nếu đóng cửa thì doanh nghiệp sẽ mất toàn bộ tiền đầu tư cho chi phí cố định (có nghĩa là còn lỗ hơn)
Tại điểm mà giá bán nhỏ hơn chi phí biến đổi bình quân thấp nhất AVCthì doanh nghiệp nên dừng sản xuất để chờ cho giá hàng hóa tăng lên hoặc chi phí biến đổi giảm xuống vì giá bán không bù đắp được chi phí biến đổi. Người ta gọi điểm Y là điểm đóng cửa.
Tại điểm mà giá bán đúng bằng với tổng chi phí bình quân thấp nhấtATC thì doanh thu thu về khi bán một đơn vị hàng hóa đúng bằng chi phí bình quân. Điểm X là điểm hòa vốn.
-> Doanh nghiệp sẽ tiếp tục sản xuất mặc dù lỗ khi P1 < P < P2. Khi giá bán dao động trong khoảng P1 và P2 thì doanh thu bù đắp được VC và một phần FC nên doanh nghiệp vẫn sản xuất; nếu dừng lại họ sẽ không bù đắp được FC mà làm cho hệ thống nguồn nhân lực, khách hàng, nhà cung cấp của họ mất đi.
Bạn sẽ thấy rất rõ điều nay trong thực tế; các khoản đầu tư lớn ví dụ như nhà máy Dung Quất, đường sắt trên cao, đường cao tốc, không thể có lãi ngay tại chục năm đầu được vì chi phí khấu hao cho tài sản cố định rất lớn + lãi các khoản đầu tư ban đầu. Nhưng cũng không thể để tiền bán mỗi đơn vị sản phẩm thấp hơn cả chi phí biến đổi cho sản phẩm đó được; ít nhất nó phải cao hơn chi phí biến đổi, bù đắp được một phần chi phí cố định.
Đường cung của hãng cạnh tranh hoàn hảo là đường thể hiện các mức sản lượng tại các mức giá khác nhau. Vì doanh nghiệp sẽ dừng sản xuất tại điểm mà P=MC nên đường cung của DN sẽ là đường MC.
Chừng nào thì giá còn cao hơn giá P0 thì doanh nghiệp còn tối đa hóa lợi nhuận. Khi giá nhỏ hơn chi phí biến đổi nhỏ nhất thì doanh nghiệp sẽ ngừng sx vì vậy sản lượng = 0
Giá càng tăng thì doanh nghiệp trong thị trường càng tăng sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận của mình.
Nếu như chi phí cận biên biến đổi tuân theo quy luật năng suất giảm dần nhưng diễn ra chậm thì làm đường cung thoải hơn khiến cho sản lượng tăng.
Nếu xét cung cầu trên cả thị trường ta sẽ được mô hình Cung Cầu quen thuộc. M.
Thặng dư của nhà sản xuất PS là diện tích của hình trên đường cung và dưới mức giá cân bằng nó là phần chênh lệch giữa giá bán thực tế và giá mà hãng sẵn sàng bán. Ví dụ người bán sẵn sàng bán mớ rau với giá 10.000đ nhưng vì điểm cân bằng là 15.000đ nên người bán được lợi 10.000đ. Điểm người bán sẵn sàng bán thấp nhất bằng với chi phí sản xuất ra sản phẩm đó.
Thặng dư của người tiêu dùng (CS) là diện tích dưới đường cầu và trên mức giá cân bằng. Nó là phần chênh lệch giữa giá mua thực tế và giá mà người mua sẵn sàng trả. Ví dụ bạn sẵn sàng mua mớ rau với giá 30.000đ nhưng người bán lại bán ở giá 15.000đ vì đó là điểm cân bằng cung cầu, bạn dược lợi 15.000đ. Điểm người mua sẵn sàng mua với giá cao nhất là điểm bằng với lợi ích có được khi sử dụng đơn vị hàng hóa đó.
Thặng dư của nsx ở đây được hiểu là tổng lợi nhuận của toàn bộ các hãng cạnh tranh hoàn hảo có mặt trên thị trường.
Như vậy sẽ có hãng được lợi nhuận nhiều mà cũng có hãng được lợi nhuận ít tùy thuộc vào đường chi phí cận biên MC của doanh nghiệp đó. Chính vì vậy chiến lược cạnh tranh trên thị trường này là cạnh tranh chi phí thấp, làm sao chi phí để sản xuất ra thêm một đơn vị hàng hóa càng thấp càng tốt.
Ở hình bên cho thấy chừng nào chi phí cận biên còn nhỏ hơn giá bán P thì doanh nghiệp còn thu được thặng dư từ mỗi đơn vị bán.
Trong dài hạn thì do rào cả gia nhập thấp nên số công ty tham gia vào ngày càng đông hơn khiến cho lượng cung tăng lên ở mỗi mức giá, đường cung dịch phải. Giá sẽ giảm từ P về P2 vì vậy về dài hạn hãng cạnh tranh hoàn hảo tiến dần tới lợi nhuận bằng 0.
Grab và thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
Bài viết liên quan
- Kinh tế học (P20: Doanh thu, Chi phí, Lợi nhuận)
- Kinh tế học (P22: Độc quyền bán)
- Kinh tế học (P23: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo P1)
- Kinh tế học (P24: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo P2)
- Kinh tế học (P25: Thị trường lao động P1)
- Kinh tế học (P26: Thị trường lao động P2)
- Phi lý trí (P10: Chuẩn mực xã hội)
- Mục lục Kinh tế học
Comments
comments
Video liên quan
Khuyết tật kinh tế thị trường là gì
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường là hai khái niệm không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Nhưng về cơ bản, chúng có cùng nguồn gốc, cùng bản chất.
Cho đến nay, xung quanh việc nhận thức về kinh tế thị trường còn rất nhiều vấn đề phức tạp, chưa và khó đi tới sự thống nhất. Nhưng có thể khẳng định rằng: Kinh tế thị trường là giai đoạn lịch sử có tính tất yếu và phổ biến trong tiến trình phát triển của mọi quốc gia. Đó là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế này, việc định hướng sản xuất, lưu thông hàng hoá đều do thị trường quyết định. Nói cách khác, nền kinh tế này vận động theo các quy luật vốn có như: quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, cung cầu Giá cả, việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế do thị trường quyết định. Như vậy, ở đây, thị trường chính là yếu tố mang tính chất trung tâm. Tồn tại trên thế giới hiện nay có hai hình thái kinh tế thị trường chủ yếu: Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (TBCN), và Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nền tảng của kinh tế thị trường TBCN chính là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong khi đó, kinh tế thị trường XHCN lại được tạo dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Kinh tế thị trường XHCN (hay kinh tế thị trường định hướng XHCN) thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Các nhà kinh tế học hiện đại phân biệt kinh tế thị trường và kinh tế chỉ huy, hai kiểu tổ chức kinh tế hiện đại, dựa trên cơ chế vận hành của chúng. Kinh tế chỉ huy là nền kinh tế có sự hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. ở đó, các yêu cầu: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều được phát ra từ một trung tâm, mang tính pháp lệnh và luôn được thực hiện theo các chỉ tiêu, kế hoạch định sẵn. Các nước XHCN Đông Âu, Liên Xô, Việt Nam và một số nước khác, từ sau Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 đến những năm 90 của thế kỷ XX, đã áp dụng kiểu tổ chức kinh tế này.
Sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung các nguồn lực cho sản xuất, tạo điều kiện ra đời của kinh tế thị trường.
Nói đến kinh tế thị trường, thực chất là nói tới cơ chế thị trường.
Trong bài này, chúng tôi xin được trao đổi xung quanh vấn đề cơ chế thị trường và những mặt trái (tiêu cực) của cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trước tiên, phải hiểu đúng về cơ chế thị trường. Trong các vấn đề về kinh tế nói chung, kinh tế thị trường nói riêng, chúng ta hay bắt gặp khái niệm Cơ chế thị trường. Trong các lĩnh vực, các khía cạnh của cuộc sống đời thường, đôi khi người ta có sử dụng cụm từ Cơ chế thị trường. Vậy thế nào là cơ chế thị trường?.
Theo nghĩa chung nhất, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường, do sự tác động bởi với các quy luật khách quan vốn có của nó. Cụ thể hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau, của mối quan hệ biện chứng, qua lại, gắn bó giữa các yếu tố giá cả, cung cầu, cạnh tranh,v.v Trên thị trường, tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của quy luật thị trường, trực tiếp phát huy tác dụng để điều tiết nền kinh tế, cạnh tranh đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơ chế thị trường luôn hội tụ đầy đủ những nét chung đó. Song, lại có những nét riêng đặc trưng bản chất. Đó chính là định hướng cho sự vận hành của kinh tế thị trường: Định hướng XHCN. Việc định hướng này có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó mang tính chất quyết định tới mục đích, mục tiêu hoạt động của nền kinh tế, và cho cả một quốc gia. Bởi lẽ, bản thân nền kinh tế thị trường, với cơ chế thị trường không thể tự đi theo hướng XHCN hay TBCN. Việc nó vận động theo hướng nào là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước.
Như đã nói ở trên, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết hoạt động của nền kinh tế thị trường. Chính vì thế, cơ chế thị trường mang tính chất năng động, tích cực. Trong cơ chế thị trường, tồn tại một quy luật, ai là người đầu tiên đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và sớm nhất, đầy đủ sức thuyết phục về giá trị và giá trị sử dụng thì có khả năng thu được nhiều lợi nhuận. Cơ chế thị trường kích thích tối đa hoạt động của các chủ thể kinh tế, hướng đến mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí. Cơ chế thị trường luôn đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải linh hoạt, sáng tạo, tìm hiểu nhu cầu thị hiếu trên thị trường để cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ có chất lượng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sức ép của cạnh tranh chưa phải là quá khốc liệt. Song, nếu muốn tồn tại và phát triển với xu thế toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay, bắt buộc người sản xuất phải giảm chi phí cá biệt đến mức tối thiểu. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, đổi mới khoa học công nghệ ứng dụng, lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có trình độ, có năng lực. Do đó, cơ chế thị trường thúc đẩy đào tạo nhân lực như là một yêu cầu khách quan. Cơ chế thị trường mang tính năng động, tích cực, đó là điều tất yếu.
Song, có một giả thuyết được đặt ra. Nếu cơ chế thị trường chỉ bao hàm những nhân tố tích cực, những ưu điểm to lớn, thì Nhà nước có đóng vai trò gì không? Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, có hai quan điểm: Nhà nước có can thiệp vào nền kinh tế hay không? và nếu có thì ở mức độ nào? đã từng được các nhà kinh tế học thuộc các trường phái kinh tế tranh luận khá gay gắt.
Nhưng ở đây, đặt ra giả thuyết đó để khẳng định rằng: Cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN luôn mang tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Nhà nước XHCN chính là người điều tiết vĩ mô nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, đảm bảo sự hài hoà, thống nhất trong cơ chế vận hành, theo các quy luật kinh tế khách quan của cơ chế thị trường. Vì cơ chế thị trường luôn tồn tại những khuyết tật vốn có của nó.
Cụ thể, trong nền kinh tế thị trường XHCN, mặc dù có sự quản lý và định hướng xuyên suốt của Nhà nước, song không vì thế mà hiện tượng độc quyền trong nền kinh tế không xuất hiện. Ngược lại, đôi khi chính sự định hướng lại là cơ sở để mầm mống đó nảy sinh. Độc quyền lấn át cạnh tranh, làm mất tính năng động hiệu quả của nền kinh tế. Độc quyền làm cho nền kinh tế trở nên trì trệ. Độc quyền là hiện tượng một doanh nghiệp độc chiếm việc sản xuất và cung ứng hàng hoá, dịch vụ thuộc một lĩnh vực nào đó trên thị trường, nhờ đó mà doanh nghiệp độc quyền định giá cả và thu được lợi nhuận độc quyền. Khi độc quyền xuất hiện, các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng, nâng cao giá cả. Độc quyền xuất hiện, thì không có sức ép cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật. Trong các lĩnh vực cung cấp các sản phẩm, dịch vụ phục vụ lợi ích và nhu cầu thiết yếu của người tiêu dùng như các dịch vụ về điện lực, bưu chính viễn thông, vật liệu xây dựng, dệt may v.v độc quyền luôn làm hạ thấp lợi ích của người tiêu dùng. Bởi vì, nhờ ưu thế độc quyền nên các tổ chức độc quyền không coi trọng việc nâng cao khả năng cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận cao. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mầm mống độc quyền thường xuất hiện trong các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế của nhà nước, nắm giữ những ngành nghề sản xuất, kinh doanh trọng yếu. Các tổ chức độc quyền, rất có thể, dùng lợi nhuận độc quyền mua chuộc ảnh hưởng của chính phủ nhằm bảo vệ lợi ích cho mình. V.I.Lênin gọi độc quyền là hiện tượng ăn bám.
Cơ chế thị trường mang tính năng động, hiệu quả, song ảnh hưởng của cơ chế thị trường đối với xã hội là một vấn đề không nhỏ. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn tới tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Sự vận hành tốt nhất của cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường XHCN mở ra những cơ hội tích cực cho sự phát triển và giàu có về vật chất của các tầng lớp dân cư trong xã hội, song cũng làm khoảng cách giữa các tầng lớp đó ngày càng tăng lên. Trong xã hội, sự vi phạm quyền con người, vi phạm chủ quyền quốc gia, tình trạng bất công, sự đe doạ về an ninh, nạn nghèo đói có nguy cơ tăng lên.
Trong kinh tế thị trường, mục tiêu lợi nhuận đôi khi có tác động tiêu cực. Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng giả, kém chất lượng, làm giảm giá trị hàng hoá, mất niềm tin của người tiêu dùng. Mặt khác, có một bộ phận người do may mắn, hay tài giỏi, làm giàu, đối lập với bộ phận người kém cỏi, không gặp may bị thua lỗ phá sản, bần cùng hoá. Từ đó dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc: chủ - thợ, tư sản - vô sản, thống trị - bị thống trị, bóc lột - bị bóc lột.
Công bằng xã hội hay là một sự xa vời? Trên thế giới, mỗi phút qua đi có 29 trẻ em chết đói, và cũng trong phút ấy, người ta bỏ ra gần 2 triệu đôla vào chạy đua vũ trang: nguyên nhân chính của sự huỷ diệt loài người. Quá trình tích luỹ tư bản, tích luỹ sự giàu có về phía giai cấp tư sản, thống trị và tích luỹ sự nghèo khổ về phía những người vô sản, làm thuê, bị thống trị đã tạo nên một mâu thuẫn sâu sắc. Về cơ bản, nó xa lạ hay đi ngược lại hoàn toàn với những lý tưởng tươi sáng của con người, của chủ nghĩa nhân đạo; nó tàn bạo, không thương xót, không tình cảm; nó lạnh lùng, tỉnh táo đến mức thô bạo. ở đó, công bằng xã hội không thể nảy nở.
Cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường XHCN mang những đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường thuần tuý, nên khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp. Khủng hoảng kinh tế đồng nghĩa với tình trạng dư thừa trong sản xuất, sản xuất tăng lớn hơn tiêu dùng, còn tiêu dùng giảm, dẫn đến tình trạng hàng hoá không bán được, doanh nghiệp không bù đắp chi phí và thực hiện tái sản xuất, phá sản Khủng hoảng kinh tế, nếu có diễn ra thì mang tính chu kỳ, gồm 4 giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi, hưng thịnh.
Khủng hoảng kinh tế làm cho doanh nghiệp suy sụp, người lao động không có việc làm. Thất nghiệp như là con đẻ của khủng hoảng kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp ngày càng lớn, vì trong cơ chế thị trường, là nền kinh tế mở, hội nhập, kinh tế tri thức, đòi hỏi người lao động phải có trình độ, có năng lực làm việc. Nạn thất nghiệp đưa người lao động tới những mặt trái trong đời sống xã hội.ở đây, nguyên nhân chủ yếu là vấn đề tâm lý. Không có việc làm, việc làm không phù hợp khả năng, dẫn tới tâm lý chán nản, bất mãn, làm việc không tích cực, không hiệu quả, những gánh nặng về vật chất, những đòi hỏi từ phía gia đình, xã hội v.v đã đưa đẩy nhiều người lao động tới sự tự huỷ hoại. Tệ nạn xã hội như: ma tuý, mại dâm, tham nhũng v.v; những suy đồi, tha hoá về đạo đức tăng lên với tốc độ ghê gớm. Mặt trái của cơ chế thị trường len lỏi vào trong tất cả những ngõ ngách nhỏ nhất của xã hội, của quan hệ xã hội. Một bộ phận giới trẻ không có việc làm, dư thừa tiền bạc, lười lao động, ham hưởng thụ, tất nhiên, luôn đi đầu trong việc hấp thụ văn hoá độc hại.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nếu không biết khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, sẽ dẫn tới cạn kiện và khó có thể tái sinh. Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá luôn mang tính hai mặt. Khí thải, chất thải công nghiệp, nếu không được xử lý một cách khoa học, thì ô nhiễm môi trường là điều khó tránh khỏi. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ phía các doanh nghiệp, do chạy theo lợi nhuận mà không quan tâm tới vấn đề môi trường, làm ô nhiễm bầu không khí, làm bẩn nguồn nước, tàn phá rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ v.v Vấn đề trên chính là một khuyết tật nan giải của cơ chế thị trường.
Tất cả những khuyết tật trên do cơ chế thị trường sinh ra, song bản thân cơ chế thị trường không thể tự khắc phục được. Vì vậy, cần phải có những tác động từ bên ngoài cơ chế thị trường. ở đây, chính là vai trò kinh tế của Nhà nước XHCN. Nhà nước can thiệp vào kinh tế, ở những mức độ khác nhau, để sửa chữa những thất bại của thị trường. Muốn vậy, trước hết Nhà nước XHCN phải dựa trên yêu cầu của các quy luật khách quan trong kinh tế thị trường, với mục đích nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Cụ thể:
Thứ nhất, thông qua hệ thống luật pháp, Nhà nước đảm bảo sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội, có cơ chế thông thoáng trong đầu tư, tạo ra những hành lang pháp lý rõ ràng trong hoạt động kinh tế. Mặt khác, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp. Nhà nước khuyến khích tư nhân chuyển dịch cơ cấu đầu tư, sản xuất, kinh doanh và điều chỉnh hành vi kinh tế của họ, sao cho có hiệu quả.
Thứ hai, Nhà nước XHCN sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ để điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Trong một giai đoạn kinh tế nhất định, nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát. Một kế hoạch tài chính vĩ mô, một chính sách tiền tệ ổn định sẽ góp phần điều hoà những mặt trái đó của cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, luôn đấu tranh, ngăn chặn tình trạng độc quyền, nhất là độc quyền trong các lĩnh vực ngành nghề kinh tế cơ bản.
Thứ ba, để nền kinh tế thị trường không đi chệch định hướng XHCN, Nhà nước cần khắc phục, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đối với xã hội. Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Theo chúng tôi, cơ chế thị trường có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao, song nó không tự đem lại những giá trị mà xã hội vươn tới, hay sự phân phối lợi ích công bằng trong các tầng lớp dân cư. Vì vậy, Nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc điều chỉnh thu nhập, cải cách tiền lương, cải thiện đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân; Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo con người mới XHCN, để có thể làm chủ khoa học công nghệ và tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế.
Tóm lại, cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một khái niệm, một vấn đề kinh tế mang tính hai mặt. Cơ chế thị trường tự phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá, ở đó có cơ chế thị trường hoạt động. Cơ chế thị trường luôn mang trong mình những khuyết tật vốn có của nó. Nhà nước XHCN, với vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô, sẽ hạn chế và sửa chữa những khuyết tật của cơ chế thị trường, nhằm ổn định, nâng cao hiệu quả kinh tế, đồng thời thực hiện công bằng xã hội. Đó cũng chính là mục đích phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các nước XHCN, trong đó có Việt Nam./.
Video liên quan
Bài đăng phổ biến
-
Như chúng ta cũng biết, chiếc điện thoại từ lâu đã trở thành một vật bất ly thân trong đời sống xã hội ngày nay. Để tiện cho công việc cũng ...
-
Công Thức Chế Tạo Đồ Trong Minecraft 1.16.4 Các công thức chế tạo đồ cơ bản Items Nguyên liệu Cách chế tạo Công dụng GỗThân gỗ Xây dựng nhà ...
-
HÌNH THỨC GÕ ĐỆM KHI HÁT CÁC CA KHÚC CHO TRẺ MẦM NON VÀ CÁCH HƯỚNG DẪN SINH VIÊN THỰC HÀNH HIỆU QUẢ Âm nhạc là một trong những hoạt động ...
-
The worst song in Eurovision came in first and the best came second to last . How stupid! Bài hát tệ nhất ở Eurovision đứng đầu và bài hát...
-
Đáy của hình lăng trụ đứng tam giác ABC.A'B'C' là tam giác đều cạnh bằng 4 . Tính khoảng cách giữa hai đường thẳng AA' và BC...
-
Trong bài viết dưới đây Taimienphi.vn sẽ hướng dẫn bạn cách để đổi màu áo, quần bằng Photoshop . Thủ thuật đổi màu ...
-
Bạn đã đặt trước thứ gì đó nhưng bây giờ bạn đang suy nghĩ lại? Bạn đã thay đổi ý định về một bộ phim hoặc album nhạc mà bạn đã đặ...
-
Chất Kết Tủa Là Gì ? Công Thức Hóa Học Chất Kết Tủa admin November 28, 2019 Tin Tức Comments Off on Chất Kết Tủa Là Gì ? Công Thức Hóa ...
-
IC là một loại linh kiện không thể thiếu trong bất cứ mạch điện tử nào, vậy IC là gì? Cầu tạo và chức năng là gì? IC là gì? IC tiếng anh là ...
-
Nếu bạn đang tò mò không biết crush nào hay người bạn bí mật nào đang theo dõi facebook của bạn âm thầm nhưng không biết cách tìm ra đối tượ...
Danh sách Blog của Tôi
Labels
- Android
- Apple
- Bài tập
- Bàn phím
- Bánh
- Bao lâu
- Bao nhiêu
- Bí quyết
- Cách
- Chia sẻ
- Chuột
- Có nên
- Công Nghệ
- Công thức
- Cpu
- Cryto
- Danh sách
- Dịch
- Đại học
- Đánh giá
- Đẹp
- Eth
- File
- Film
- Gái
- Game
- Giá
- Giá bán
- Giá rẻ
- Giới Tính
- Gpu
- Gym
- Học
- Học Tốt
- Hỏi Đáp
- Hướng dẫn
- Ios
- Ipad
- Iphone
- Khoa Học
- Khỏe
- Khỏe Đẹp
- Kinh nghiệm
- Là gì
- Làm sao
- Laptop
- Lg
- List
- Macbook
- Màn hình
- Máy
- Máy tính
- Mẹo
- Mẹo Hay
- Món
- Món Ngon
- Mua Sắm
- Nấu
- Ngân hà
- Nghĩa là gì
- Nghiên cứu
- Ngoại ngữ
- Ngôn ngữ
- Nhà
- Ở đâu
- Phát minh
- Phân tích
- Phim
- Phụ nữ
- Phương pháp
- Phương trình
- Review
- Sách
- Samsung
- Sáng kiến
- So sánh
- Son
- Tại sao
- Thể dục
- Thế nào
- Thị trường
- Thịt
- Thuốc
- Tiếng anh
- Tiếng hàn
- Tiếng trung
- Top
- Top List
- Tốt nhất
- Trade
- Trai
- Trái đất
- Trò chơi
- Trường lớp
- Váy
- Vì sao
- Xây
- Xây Đựng