Popular Products

Recent Products

Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghiên cứu. Hiển thị tất cả bài đăng

Mục tiêu nghiên cứu là gì

kien-thuc-ve-nckh

Trong bài này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về Mục tiêu nghiên cứu là gì? Tại sao phải xây dựng mục tiêu cho nghiên cứu.

Sau khi nghiên cứu phần này, học viên có khả năng:

- Khẳng định các lí do để viết mục tiêu cho một nghiên cứu

- Xác định và mô tả sự khác biệt giữa mục tiêu tổng quát và mục tiêu đặc hiệu

- Xác định đặc tính của mục tiêu nghiên cứu

- Xây dựng mục tiêu nghiên cứu cho nghiên cứu của bạn ở một hình thức phù hợp.

Mục tiêu nghiên cứu là gì:

Mục tiêu nghiên cứu nhằm tóm tắt những gì sẽ đạt được sau khi hoàn thành nghiên cứu. Thông thường người ta chia mục tiêu làm mục tiêu tổng quát và mục tiêu đặc hiệu.

Mục tiêu tổng quát là những điều đạt được một cách chung nhất, còn mục tiêu đặc hiệu bao gồm các phần nhỏ hơn và có liên hệ với nhau và với mục tiêu tổng quát một cách hợp lí. Trong mục tiêu đặc hiệu sẽ cụ thể những điều sẽ làm trong nghiên cứu, làm ở đâu và với mục đích gì.

Nếu chúng ta có vấn đề nghiên cứu là mức độ sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em thấp tại huyện CT. Và sau khi phân tích vấn đề nghiên cứu chúng ta nhận thấy để giải quyết các vấn đề trên cần phải tìm hiểu các lí do khiến mức độ sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em thấp tại huyện CT ta sẽ thiết lập mục tiêu tổng quát như sau:

- Xác định các lí do của mức độ sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em thấp tại huyện ANhằm đặt được mục tiêu tổng quát kể trên, chúng ta phải hoàn thành các công việc sau.

Các công việc này được gọi là mục tiêu đặc hiệu:

  • Xác định mức độ sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em ở huyện CT trong các năm 2000 và 2001 so với chỉ tiêu đặt ra
  • Xác định có sự liên hệ giữa việc sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em với mùa trong năm, loại hình phòng khám
  • Xác định các yếu tố dịch vụ của phòng khám ảnh hưởng đến tính hấp đẫn đối với bà mẹ
  • Xác định các yếu tố văn hoá và kinh tế xã hội ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em.
  • Kiến nghị các giải pháp để cải thiện sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em.
  • Xây dựng kế hoạch thực hiện và các kiến nghị phối hợp với các ban ngành.
  • Như đã trình bày ở trên, trong các nghiên cứu ứng dụng, nên có mục tiêu xác định quy mô của vấn đề và có các mục tiêu nhằm xây dựng kế hoạch ứng dụng kết quả của nghiên cứu.

Tại sao phải xây dựng mục tiêu nghiên cứu

Khi tiến hành nghiên cứu cần phải xây dựng mục tiêu nghiên cứu nhằm giúp cho chủ đề nghiên cứu được tập trung và tránh việc thu thập các thông tin không cần thiết để giải quyết vấn đề. Ngoài ra việc xây dựng mục tiêu cụ thể sẽ giúp cho việc thiết kế nghiên cứu bằng cách tổ chức mục tiêu nghiên cứu thành các phần hay các giai đoạn xác định.

Yêu cầu của mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu tốt cần phải đạt được các yêu cầu sau:

- Phải bao gồm các khía cạnh khác nhau của vấn đề nghiên cứu theo một trình tự hợp lí và mạch lạc.

- Ðược hành văn rõ ràng, cụ thể chỉ rõ điều sẽ làm, làm ở đâu, trong thời gian nào và với mục đích gì

- Mục tiêu phải phù hợp với điều kiện thực tiễn, khả thi.

- Mục tiêu phải bắt đầu bằng các từ hành động cụ thể và có thể đánh giá mức độ đạt được như: xác định, so sánh, kiểm chứng, tính toán, mô tả

Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết nghiên cứu là một mệnh đề khẳng định quan hệ giữa một hay nhiều yếu tố với vấn đề nghiên cứu. Thí dụ "sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em thấp nhất trong thời gian thu hoạch" là một giả thuyết nghiên cứu bởi vì nó khẳng định rằng trong thời gian thu hoạch thì mức độ sử dụng dịch vụ phòng khám trẻ em sẽ thấp.

Việc kiểm định giả thuyết nghiên cứu có thể được xem là một mục tiêu nghiên cứu bởi vì nó sẽ giúp cho giải quyết vấn đề nghiên cứu. Giả thuyết nghiên cứu thường được sử dụng để kiểm tra một lí giải đã có và thường được sử dụng trong các nghiên cứu y sinh học nhưng thường không phù hợp đối với nghiên cứu hệ thống y tế.

Tên đề tài nghiên cứu

Cần phân biệt tên đề tài nghiên cứu với vấn đề nghiên cứu: Vấn đề nghiên cứu là sự khác biệt giữa hiện tại và điều mong đợi trong khi tên đề tài nghiên cứu lại tập trung và phương pháp giải quyết vấn đề vì vậy tên đề tài nghiên cứu thường liên quan chặt chẽ với mục tiêu nghiên cứu.

Tuy nhiên khác với mục tiêu nghiên cứu, thường bắt đầu bằng một động từ hành động, tên đề tài nghiên cứu thường là một ngữ danh từ (nên được gọi là tên). Tên đề tài nghiên cứu nên ngắn gọn, bởi vì nó chiếm chỗ trong mục lục của tờ báo hay trong MEDLINE, nhưng phải chứa nhiều thông tin. Bởi vì hiện nay do sự phổ biến của việc tìm kiếm bài báo trên Internet, tên đề tài nên chứa những từ khoá (keyword) của bài báo. Phần từ khoá của bài báo hiện nay không phải là phần bắt buộc vì vậy việc xây dựng tên đề tài nghiên cứu một cách hợp lí là cực kì quan trong.

Video liên quan

Nghiên cứu vấn đề việc làm của sinh viên

Xã hội học - Thực trạng việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU.1

1. Lý do chọn đề tài .1

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.3

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.4

4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu .4

5. Câu hỏi nghiên cứu .5

6. Giả thuyết nghiên cứu .5

7. Phương pháp nghiên cứu.5

8. Khung lý thuyết.7

NỘI DUNG CHÍNH.8

CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.8

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.8

1.1.1. Những nghiên cứu về chất lượng đào tạo, chất lượng giáo dục bậc đại học.9

1.1.2. Những nghiên cứu về thực trạng việc làm hiện nay của sinh viên sau khi tốt

nghiệp.12

1.1.3. Những nghiên cứu về yêu cầu của nhà tuyển dụng về các kỹ năng đối với sinh

viên sau khi tốt nghiệp.17

1.2. Khái niệm công cụ của đề tài .21

1.2.1. Khái niệm sinh viên.21

1.2.2. Khái niệm sinh viên tốt nghiệp.22

1.2.3. Khái niệm việc làm: .22

1.2.4. Khái niệm thị trường lao động.23

1.2.5. Khái niệm quan hệ xã hội.24

1.3. Các lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu.24

1.3.1. Lý thuyết hành động xã hội .24

1.3.2. Lý thuyết nhu cầu của Maslow .26

1.3.3. Lý thuyết mạng lưới xã hội.28

1.4. Một vài nét về Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh .29

CHưƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VIỆC LÀM CỦA SINH VIÊN SAU TỐT NGHIỆP

.31

2.1. Tình hình việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.31

pdf39 trang | Chia sẻ: anan10 | Ngày: 03/11/2020 | Lượt xem: 2850 | Lượt tải: 9download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xã hội học - Thực trạng việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo là một trong những vấn đề trung tâm, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các cấp quản lý. Trên thế giới đã có nhiều mô hình tổ chức xã hội nhằm hướng đến mục tiêu kết nối hai lĩnh vực việc làm và đào tạo như mô hình việc làm căn cứ theo đào tạo lấy đào tạo làm nền tảng của Pháp, đào tạo song song trong doanh nghiệp hay trên giảng đường của Đức hoặc mô hình đào tạo thông qua việc làm của khối Anh Mỹ. Như vậy, đối với giáo dục ở nước ta hiện nay đó là làm thế nào để tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa đào tạo và việc làm, đáp ứng được những nhu cầu, đỏi hỏi ngày càng cao của xã hội. Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asia Development Bank) thì: Việc phát triển các hoạt động có giá trị thặng dư cao đòi hỏi phải tăng cường tiềm năng công nghệ của các nguồn lao động cái mà khu vực Đông Nam Á hiện nay đang cần có khả năng mềm dẻo cao và có trình độ chuyên môn cao. Như vậy, theo Ngân hàng Thế giới thì có hai yếu tố khả năng thích ứng được đặt trước trình độ đào tạo; đây là hai yếu tố cơ bản để cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo. Trong thời gian gần đây, khi nền kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều khủng hoảng, các cộng đồng doanh nghiệp đi vào cắt giảm nhân sự để tiết kiệm chi phí, những nhà 9 tuyển dụng cũng trở nên khắt khe hơn với các sinh viên tốt nghiệp trong đó có sinh viên các ngành kỹ thuật một trong những ngành bị đánh giá là khó kiếm việc làm và tỷ lệ sinh viên làm trái ngành nghề cao. Và thực tiễn diễn ra rất nhiều sinh viên không tìm được việc làm, không trải qua được vòng phỏng vấn do thiếu những kỹ năng cơ bản, chưa đáp ứng được các yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Nghiên cứu Thực trạng việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp (Nghiên cứu trường hợp Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh) hi vọng làm rõ hơn về vấn đề thực trạng sinh viên sau khi tốt nghiệp, cùng với đó là những yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Bởi vì vấn đề việc làm nói chung và việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp nói riêng đã và đang trở thành vấn đề nghiên cứu của nhiều đề tài đi trước, các nhận định, các bài viết đánh giá về vấn đề này. 1.1.1. Những nghiên cứu về chất lượng đào tạo, chất lượng giáo dục bậc đại học Trong Báo cáo dự án Đánh giá chất lượng giáo dục bậc Đại học ở Việt Nam (Cách tiếp cận từ thị trường lao động) được Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tiến hành trong tháng 2 năm 2009 2010. Nội dung chính của báo cáo gồm 4 phần: Phần I: Những thành tựu và hạn chế của giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn 2000 2010; Phần II: Hiện trạng chất lượng giáo dục đại học Việt Nam dưới góc độ thị trường lao động; Phần III: Nguyên nhân yếu kém về chất lượng giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay; Phần IV: Các khuyến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo đã tập trung làm rõ hiện trạng chất lượng giáo dục Đại học từ góc độ tiếp cận thị trường lao động, báo cáo nhấn mạnh: Trong khoảng 10 năm trở lại đây giáo dục Việt Nam có những thay đổi đáng kể cả về chất và về lượng. Tuy nhiên mặt chất lượng vẫn tồn tại nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế xã hội, trong khi số lượng các trường tăng gấp đôi trong giai đoạn này nhưng mặt chất lượng lại tăng không đáng kể. Báo cáo cũng chỉ ra thực tế tỷ lệ thất nghiệp của sinh viên Việt Nam ở mức thấp, hầu hết sinh viên ra trường tìm được việc làm, tuy nhiên tỷ lệ làm trái ngành ở mức cao. Xem xét vấn đề này từ góc độ thị trường lao động, nghiên cứu cho rằng việc nhà sử dụng lao động nói riêng và thị trường lao động nói chung đang thay đổi hình thức tuyển dụng và có 3 yếu tố làm căn cứ tuyển dụng 10 nhân lực là: khả năng chuyên môn, khả năng tự đào tạo và kỹ năng mềm. Đây là những cơ sở quan trọng để các trường Đại học, Cao đẳng nói chung và sinh viên nói riêng có những định hướng cụ thể trong việc hoạch định, xây dựng các chương trình đào tạo nhằm bị cho sinh viên những kỹ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng và thị trường lao động, qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục Đại học ở Việt Nam. Cuốn sách: Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế (NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha, đề tài KX 05 10). Nhóm tác giả đã đề cập đến việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, mối quan hệ giữa nguồn nhân lực và quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong đề tài cũng làm rõ thực trạng lao động và chính sách sử dụng lao động của nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và mất cân đối. Chất lượng nguồn lao động của được nhóm tác giả quan tâm, chất lượng lao động có liên quan đến khả năng cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, theo tác giả đối với Việt Nam đây là vấn đề rất đáng lo ngại. Bàn về nguồn nhân lực đào tạo nhưng không có việc làm, thậm chí việc làm không phù hợp với chuyên môn được đào tạo lãng phí gây tổn thất về mặt thời gian và tiền bạc, chất xám của nền giáo dục đất nước. Chính sách sử dụng lao động cũng còn nhiều quan liêu, hai tác giả đưa ra kết luận trong nền kinh tế nhiều thành phần người lao động cần được đối xử bình đẳng, cần có những chính sách phù hợp để sử dụng nguồn lao động đó một cách hiệu quả nhất, tạo điều kiện cho người lao động phát huy được tiềm năng và năng lực của bản thân. Vấn đề đó đã được nhiều nhà nghiên cứu, các nhà tuyển dụng, các nhà hoạch định chính sách quan tâm và nghiên cứu, bài viết đăng thường xuyên trên các sách báo và các sách chuyên khảo chủ yếu tập trung vào tìm hiểu thực trạng việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, các bài viết nghiên cứu đã đi mô tả khá rõ về việc làm của các nhóm đối tượng này đồng thời phản ánh thực tế mất cân đối về cơ cấu lao động giữa các ngành nghề. Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội là tiêu đề cuốn sách của tác giả Bùi Văn Nhơn (NXB Tư pháp, HN 2006). Tác giả đánh giá cao vai trò của phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó 11 có vai trò của các cơ sở giáo dục đào tạo, kể cả các cơ sở đào tạo ngoài công lập. Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực xã hội của các loại hình đào tạo này cũng chính là vấn đề được Giáo sư Bùi Văn Nhơn bàn đến, theo tác giả đây là nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế, xã hội của một đất nước. Trong Quản lý và phát triền nguồn nhân lực xã hội đã đưa ra một số yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề việc làm cho người lao động, tình trạng thiếu việc làm còn trầm trọng do còn chậm trong đổi mới tư duy, giải quyết vấn đề, việc làm trong quan niệm... Trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay theo tác giả tạo việc làm cho người lao động với quan điểm sử dụng tối đa tiềm năng lao động trong xã hội, trong đó có quan điểm đúng đắn về việc làm và tự tạo việc làm là những việc hình thức hiệu quả hơn cả. Nghiên cứu:Đánh giá chất lượng đào tạo từ góc độ cựu sinh viên của trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thúy Loan và Nguyễn Thị Thanh Thoản đã chỉ ra rằng: Đảm bảo chất lượng cho giáo dục đại học là hoạt động cần thiết nhằm cung cấp cho sinh viên tốt nghiệp có đủ trình độ đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Kết quả khảo sát sinh viên đã tốt nghiệp phản ánh mức độ thích ứng sản phẩm đào tạo của trường với nhu cầu của thị trường lao động. Theo đó, việc khảo sát được tiến hành với nhóm cựu sinh viên đã tốt nghiệp và đi làm từ hơn 6 tháng trở lên. Bên cạnh việc tìm hiểu về thời gian tìm việc làm, tỷ lệ thay đổi công ty của cựu sinh viên, nghiên cứu cũng cho thấy ảnh hưởng của bằng Đại học với công việc hiện tại của họ còn rất lớn, không ít ý kiến cho rằng đây là căn cứ để trả lương và đề bạt chức vụ cho nhân viên trong quá trình họ làm việc. Ngoài ra nghiên cứu cũng tìm hiểu những đánh giá của cựu sinh viên về chất lượng đào tạo của trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, các tiêu chí được đưa ra để đánh giá bao gồm: chương trình đào tạo; đội ngũ giảng viên; cơ sở vật chất trong đó đánh giá đáng chú ý nhất là kết quả đào tạo. Nghiên cứu cho thấy kết quả đào tạo được thể hiện cụ thể qua những kỹ năng cơ bản mà sinh viên cần được trang bị khi tốt nghiệp như có lợi thế cạnh trạnh trong công việc khả năng chịu áp lực công việc tư duy làm việc độc lập kỹ năng phân tích và đánh giá vấn đề kỹ năng làm việc nhóm... Nghiên cứu đã cung cấp một bức tranh khá tổng quát về đánh giá chất lượng đào tạo thông qua góc nhìn của các cựu sinh viên 12 Trong nghiên cứu Giáo dục đại học ở Việt Nam: Nhìn từ thị trường lao động, năm 2007, tác giả Phạm Thị Huyền, giảng viên trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay cung không đáp ứng cầu về cả mặt số lượng và chất lượng. Về số lượng, sự thiếu hụt nguồn nhân lực đạt chuẩn ở hầu hết các ngành từ công nghệ thông tin đến các ngành kinh tế như tài chính ngân hàng, marketing, du lịch hay đóng tàu. Về chất lượng, có thể nói tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học đáp ứng được yêu cầu thực tế của công việc hiện tại là rất thấp. Nghiên cứu này cũng trích dẫn các nghiên cứu của Ngân hàng thế giới là tới 50% doanh nghiệp may mặc, hóa chất đánh giá lao động được đào tạo không đáp ứng nhu cầu của mình. Khoảng 60% lao động trẻ tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo cần được đào tạo lại ngay sau khi tuyển dụng, cá biệt, lĩnh vực phần mềm cần đào tạo lại ít nhất 1 năm cho 80% - 90% sinh viên tốt nghiệp được tuyển dụng. Bài viết Nhu cầu làm việc chất lượng cao của xã hội trong thời kỳ mới (Lê Thành Tâm, 2009) cho rằng, thực trạng chung là phần lớn sinh viên tốt nghiệp ra trường vẫn còn nhiều gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm phù hợp và ổn định, do chưa định hướng đúng mức về nghề nghiệp việc làm, vì một số sinh viên chọn ngành học chưa phù hợp với năng lực, sở trường và xu hướng phát triển của thị trường lao động. Mặt khác, các doanh nghiệp rất quan tâm tuyển chọn đối với sinh viên tốt nghiệp về kiến thức ngoại ngữ, tin học, khả năng hợp tác, kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, những hiểu biết về môi trường văn hóa doanh nghiệp và tác phong làm việc công nghiệp. Sự hạn chế lớn của sinh viên khi ra trường, đa số chưa định hướng được cụ thể để chọn một ngành chuyên môn phù hợp với khả năng, đồng thời do hệ thống thông tin thị trường lao động, hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm thành phố chưa cập nhật kịp thời để gắn kết sinh viên với doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. 1.1.2. Những nghiên cứu về thực trạng việc làm hiện nay của sinh viên sau khi tốt nghiệp Trong cuốn sách Toàn cầu hoá: cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam", tác giả Nguyễn Bá Ngọc và Trần Văn Hoan (chủ biên), "Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2002, đã trình bày tổng quan tác động của toàn cầu hoá đến lao động 13 và các vấn đề xã hội của Việt Nam, những xu hướng vận động của nguồn nhân lực, lao động và việc làm Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế, phân tích những cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó đề ra các giải pháp đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế. Liên quan đến vấn đề việc làm, lao động và nghề nghiệp bài viết Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn (Tạp chí Lao động xã hội số 247 đăng từ 16 39/4/2004) của Nguyễn Hữu Dũng. Trong nghiên cứu, tác giả đã bàn đến thực trạng lao động việc làm ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa khi mà lực lượng lao động ở khu vực đó khó có thể đảm bảo khi tham gia vào các nhà máy, xí nghiệp... Khi đô thị hóa đang tiến đến các vùng nông thôn thì dân cư tại cá vùng này đang gặp phải những thay đổi quan trọng cả về đất đai và điều kiện làm việc, tác giả đã chỉ ra những khó khăn của lao động việc làm tại khu vực nông thôn đồng thời chỉ ra những hướng giải quyết cho những đối tượng. Trong bài viết:Thực trạng lao dộng việc làm qua kết quả điều tra 1/7/2004 (Tạp chí lao động xã hội, số 251, từ 7 10/11/2004) của tác giả Trương Văn Phúc đã đề cập đến tình trạng lao động và việc làm của lực lượng lao động ở các tỉnh, thành phố cũng như vùng kinh tế trọng điểm. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả cũng đi đánh giá một cách tổng quát những kết quả đạt được về giải quyết việc làm cho lực lượng lao động. Cuốn sách của tác giả Nguyễn Thị Thơm: Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp (NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006). Cuốn sách đã đưa ra vấn đề việc làm và chính sách với người lao động, tác giả cũng đưa ra một số nhận định đó là cần phải tôn trọng bản chất thực sự của thị trường lao động. Vai trò của các cơ sở giáo dục và đào tạo, đánh giá khách quan về mô hình xã hội hóa giáo dục. Tác giả cũng khẳng định cần đẩy mạnh các hoạt động chắp nối cung cầu lao động tạo cơ sở bình đẳng cho người lao động tiếp cận với cơ hội việc làm. Tác giả Vũ Thị Mai: Tạo việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng trong quá trình đô thị hóa Hà Nội (NXB Chính trị quốc gia, HN 2007). Tác giả nêu thực 14 trạng việc làm của người lao động bị ảnh hưởng trong quá trình đô thị hóa và các giải pháp việc làm cũng như kinh nghiệm của các nước trong việc tạo việc làm cho người lao động của mình, tức là phải dựa vào các nguồn tài trợ của gia đình, từ các tổ chức xã hội để được đào tạo, trau dồi kiến thức, phát triển và nắm vững một số nghề nghiệp nhất định đây là điều kiện cần thiết cho người lao động khi tham gia vào thị trường lao động. Đề tài:Định hướng nghề nghiệp và khu vực việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên ngoài công lập hiện nay (nghiên cứu trường hợp tại đại học Đông Đô) của tác giả Nguyễn Thị Minh Phương, 2006. Nghiên cứu của tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của việc định hướng nghề nghiệp của sinh viên, giúp họ có khả năng phát huy những sở trường cá nhân, có nhiều cơ hội lựa chọn nghề nghiệp, đam mê và tâm huyết hơn với công việc của mình. Đồng thời, nghiên cứu cũng làm rõ nguyên nhân các sinh viên vào học tập tại trường dân lập như Đông Đô là do thi rớt các trường công lập khác và do sức học còn hạn chế. Định hướng nghề nghiệp của sinh viên trường Đông Đô chủ yếu là khu vực liên doanh, tuy nhiên định hướng nghề nghiệp cũng là thước đo kết quả học tập của sinh viên sau 4 năm đại học. Xu hướng tự tạo việc làm còn khiêm tốn, để có khả năng tự tạo việc làm sinh viên cũng cần những khả năng, những phẩm chất và các yếu tố khác nữa. Nghiên cứu cũng chỉ ra, những định kiến xã hội ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình học tập và tu dưỡng đạo đức của sinh viên, định kiến xã hội còn ảnh hưởng đến sự nhìn nhận thiếu tích cực về bản thân của sinh viên. Nhiều sinh viên tốt nghiệp xuất phát từ nhu cầu nâng cao chuyên môn, ngoài ra còn có các nguyên nhân một số ngành nghề chỉ phát huy được ở những vùng có nền kinh tế phát triển. Nghiên cứu đồng thời chỉ ra xu hướng tìm việc ở thành phố lớn của sinh viên hiên này gay gắt hơn và kéo theo nhiều hệ lụy xã hội khác như: lãng phí chất xám, mất cân bằng về nguồn nhân lực, quá tải về các dịch vụ cơ sở hạ tầng. Vai trò của gia đình và các mối quan hệ xã hội là một trong những yếu tố liên quan đến cơ hội việc làm và lựa chọn khu vực làm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Trong đề tài Định hướng giá trị của thanh niên trong lĩnh vực nghề nghiệp và việc làm tác giả Trần Xuân Vinh cho rằng: nghề nghiệp và việc làm là mối quan 15 tâm hàng đầu và là giá trị quan trọng nhất của thanh niên hiện nay. Ở đây, tác giả nhấn mạnh đến giá trị việc làm bên cạnh hàng loạt các giá trị khác mà người thanh niên cần đạt được như học vấn, phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống... qua đó thấy được tầm quan trọng của việc làm với thanh niên nói chung. Nghiên cứu của Trần Trung Dũng Năng lực hội nhập không gian xã hội của sinh viên Việt Nam bàn về động cơ học tập của sinh viên cho thấy rất đa dạng, chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế, xã hội và các điều kiện khác nhau nhìn chung rất lành mạnh và luôn hướng tới các nhu cầu mưu sinh, lập nghiệp. Thứ hai động cơ học tập của sinh viên hiện nay chủ yếu hướng vào các động cơ mang tính cá nhân như học để kiếm việc, để nâng cao tri thức để phát triển nhân cách, còn động cơ học để phục vụ yêu cầu phát triển đất nước là thấp. Thứ 3, sinh viên học tập chủ yếu để có năng lực đạo đức, có nghề nghiệp chuyên môn để đảm bảo vững chắc cho tương lai của mình. Nghiên cứu Định hướng Nghề nghiệp của sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn của tác giả Nguyễn Thị Như Trang đã đi vào phân tích định hướng nghề nghiệp của sinh viên trong tương quan với định hướng chuyên môn cũng như đánh giá hai yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên là gia đình và trường học. Nghiên cứu đã chỉ ra, gia đình tuy có ít vai trò trong việc lựa chọn chuyên môn và định hướng giá trị việc làm nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc duy trì chuyên môn của sinh viên. Nhà trường cũng có tác động nhất định đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên nhưng sự tác động đó còn ở mức hạn chế so với đòi hỏi của thực tiễn. Đề tài Các yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp của sinh viên năm cuối các ngành khoa học xã hội (Nghiên cứu trường hợp Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) của tác giả Phạm Huy Cường. Nghiên cứu cho thấy sinh viên hầu như có định hướng nghề nghiệp nhưng còn thiếu thực tế và cụ thể. Khi tìm việc sinh viên quan tâm nhất đến tính ổn định và thu nhập. Bên cạnh đó đề tài cũng đưa ra và phân tích một số yếu tố tác động đến định hướng nghề cho sinh viên như bạn bè, gia đình, môi trường học tập, môi trường nghề nghiệp. Đề tài luận văn thạc sỹ nghiên cứu về Việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên ngành xã hội học, thực trạng và giải pháp, Vũ Thị Huệ, 2014 cho chúng ta 16 một cái nhìn sâu sắc về thực trạng việc làm sau khi tốt nghiệp của sinh viên ngành xã hội học hiện nay. Từ đó, đưa ra những khuyến nghị nhằm giúp khoa và nhà trường có những đánh giá và điều chỉnh hợp lý về chương trình học, phương pháp dạy nhằm nâng cao nhận thức về những kỹ năng cần thiết, cơ bản, cũng như những kỹ năng mềm cho sinh viên, để giúp sinh viên có thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu của nhà tuyển dụng khi đi xin việc. Thêm vào đó, luận văn cũng đề cập đến vai trò của nhà tuyển dụng với mục đích tạo ra sự kết hợp chặt chẽ giữa đơn vị đào tạo và đơn vị tuyển dụng, tạo ra sự hài hòa, thống nhất giữa cung và cầu trong vấn đề đào tạo cũng như việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Trong bài viết: Thực trạng lao động và việc làm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (Báo Quảng Ninh, đăng ngày 17/06/2015), tác giả đã đề cập đến thực trạng chất lượng lao động của tỉnh Quảng Ninh, đồng thời đưa ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong công tác đạo tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động trên địa bàn. Bài viết Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp Một vấn đề xã hội nan giải, tác giả Thân Trung Dũng, đăng ngày 22/04/2015, trên tadri.org đã đề cập đến vấn đề việc làm cho sinh viên sau khi ra trường không chỉ là vấn đề nan giải của Việt Nam mà cả toàn cầu. Sinh viên gặp nhiều khó khăn trong quá trình tìm kiếm việc làm. Tác giả đưa ra một số nguyên nhân chính như về chất lượng giáo dục đào tạo, thiếu khả năng thực, định hướng không rõ ràng, thiếu kỹ năng cơ bản, hoặc đào tạo chưa gắn với nhu cầu xã hội... Đồng thời, tác giả đưa ra một số giải pháp để đối phó với vấn đề thất nghiệp của sinh viên. Kết quả điều tra trong luận văn Vấn đề việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp (Bùi Thị Lan, 2012) cho thấy 78% sinh viên sư phạm được khảo sát có việc làm đúng chuyên nghành đều về giảng dạy tại địa phương. So với sinh viên sư phạm của các trường khác tỉ lệ ra trường có việc làm của sinh viên sư phạm trường Đại Học Giáo Dục- Đại Học Quốc Gia Hà Nội là lớn hơn. Tuy nhiên qua kết quả khảo sát ta cũng thấy rằng sinh viên sư phạm được khảo sát còn gặp nhiều khó khăn về tin học, ngoại ngữ, những kĩ năng mềm. Bên cạnh 26,1% người vừa làm vừa học cao học thì có 78,6 % sinh viên sư phạm ra trường chưa có việc làm đều chọn học lên cao học để có cơ hội lớn hơn để có được việc làm. 17 Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết liên quan đến vấn để lao động và việc làm mà các tác giả đã đi vào nghiên cứu như: Đề tài Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp hiện nay của tác giả Lê Văn Toàn (Học viện Báo chí và Tuyên truyền), đề tài Sự bất bình đẳng giới trong trong cơ hội tìm kiếm việc làm của tác giả Nguyễn Mai Anh cũng đề cập đến yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội việc làm như: những đặc điểm cá nhân, gia đình, giới tính, ngành học, quê quán... Tác giả Phạm Tất Thắng với đề tài Định hướng chọn nghề và nơi làm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp đã đi sâu vào hai khía cạnh: thực trạng lựa chọn nghề của sinh viên sau khi ra trường và định hướng nơi làm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Tác giả Nguyễn Văn Buồm trong Nghề nghiệp và việc làm của sinh viên hiện nay cũng đề cập đến 3 vấn đề, thứ nhất việc lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên, thứ hai việc kiếm sống của sinh viên, thứ 3 việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp. 1.1.3. Những nghiên cứu về yêu cầu của nhà tuyển dụng về các kỹ năng đối với sinh viên sau khi tốt nghiệp Hiện nay, nguồn nhân lực do các trường học cung cấp ra thị trường lao động rất lớn. Tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực có đáp ứng được yêu cầu của xã hội hay không đang là vấn đề hiện nay. Rất nhiều hội thảo diễn ra nhằm tìm ra giải pháp đào tạo được nguồn nhân lực tốt cho xã hội. Hội thảo khoa học Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Tạp chí cộng sản và nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp tổ chức đã tập trung, trao đổi về thực trạng phát triển nguồn nhân lực hiện nay. Sinh viên tốt nghiệp đáp ứng như thế nào với yêu cầu công việc trên tất cả các mặt kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp là vấn đề mà nhà trường và xã hội đang rất quan tâm. Những kiến thức và kỹ năng mà sinh viên thu nhận được từ chương trình học trong các trường học có đáp ứng tốt yêu cầu công việc hiện tại hay không?. Các tác giả tiến hành khảo sát sinh viên tốt nghiệp và nhà sử dụng lao động để xem xét, đánh giá sinh viên đáp ứng yêu cầu công việc như thế nào. Về mặt kiến thức, kỹ năng thì sinh viên đáp ứng tốt ở mặt nào, yếu kém ở vấn đề nào. Công trình của tác giả Trần Thị Thu Thắm (2006) Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh Khảo sát nhu cầu của nhà tuyển dụng thành phố Hồ Chí Minh 18 về năng lực của ứng viên mới tốt nghiệp đại học. Một nghiên cứu khác cảu tác giả Vũ Thế Dũng (2005) 8 kỹ năng cần thiết của nhà quản lý hiện đại. Nghiên cứu Yêu cầu của nhà tuyển dụng đối với sinh viên tốt nghiệp ngành quản lý kinh tế: ứng dụng phương pháp phân tích nội dung của tác giả Vũ Thế Dũng Trần Thanh Tòng, Khoa Quản lý công nghiệp Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều phát hiện đáng chú ý. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích nội dung với khoảng 300 mẫu tin quảng cáo tuyển dụng trên các trang báo tuyển dụng lớn của Việt Nam đối với sinh viên mới tốt nghiệp đại học để tìm hiểu yêu cầu của nhà tuyển dụng về những kỹ năng cần thiết với nhóm công việc này. Trên cơ sở xem xét các loại hình doanh nghiệp, vị trí tuyển dụng và ngành nghề, các tác giả đã chỉ ra các nhóm kỹ năng chính xác mà các nhà tuyển dụng yêu cầu đối với sinh viên tốt nghiệp các ngành quản lý kinh tế. Có 17 kỹ năng chính xuất hiện trong các mẫu tuyển dụng, các kỹ năng được chia ra làm 3 nhóm kỹ năng: Nhóm 1 là nhóm các kỹ năng cơ bản, đây là nhóm kỹ năng bắt buộc sinh viên phải có, nếu thiếu các kỹ năng này các ứng viên sẽ rất khó khăn trong quá trình làm việc hoặc không được nhà tuyển dụng lựa chọn. Nhóm này bao gồm 4 kỹ năng chính: ngoại ngữ, tin học văn phòng, giao tiếp và làm việc độc lập. Trong đó ngoại ngữ và tin học văn phòng là hai kỹ năng quan trọng hàng đầu. Tuy rất quan trọng nhưng nhóm kỹ năng này chỉ là điều kiện để được tuyển dụng và chưa phải điều kiện để đảm bảo. Nhóm 2 là nhóm giá trị gia tăng, nhóm này chính là nhóm kỹ năng giúp các ứng viên tạo ra sự khác biệt đối với các ứng viên khác. Các kỹ năng của nhóm 2 bao gồm 8 kỹ năng chính là: kỹ năng tổ chức, quản lý, phân tích, làm việc nhóm, tin học chuyên ngành, truyền thông, hoạch định và đàm phán. Đây rõ ràng là những kỹ năng khó hơn, cao hơn những kỹ năng cơ bản, đây là những kỹ năng ít được giảng dạy trên ghế nhà trường, cần được sinh viên nắm bắt và tự trau dồi, đây là nhóm kỹ năng thách thức đối với những sinh viên mới tốt nghiệp đại học. Nhóm kỹ năng thứ 3 là nhóm kỹ năng dành cho các nhà lãnh đạo tương lai. Nhóm này bao gồm các kỹ năng cần thiết cho một nhà lãnh đạo tương lai như kỹ nă

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004749_1_0577_2002834.pdf

Video liên quan

Mục tiêu đối tượng trong nghiên cứu văn hóa học

Nhân học và Nhân học văn hóa

bởi quản trị viên | Ngày đăng: 13-04-2018


Vào đầu năm 1976, chúng tôi (Emily Schultz và Robert Lavenda) đi đến miền bắc Cameroon ở miền tây châu Phi để nghiên cứu về quan hệ xã hội ở thị trấn Guider, nơi chúng tôi thuê một căn nhà nhỏ để ở. Trong những tuần đầu tiên sống ở đó, chúng tôi thích dùng những buổi chiều tối ấm áp của mùa khô để đọc sách và viết lách trong ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn điện sáng nhất trong ngôi nhà, ngọn đèn chiếu sáng cả một mái hiên rộng trống trải.

Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn, những cơn mưa bắt đầu và cùng với chúng xuất hiện từng đàn mối có cánh. Những con côn trùng chậm chạp có cái bụng mập mạp dài 2 inch này bị thu hút bởi ánh đèn ngoài mái hiên, và chẳng bao lâu chúng tôi thấy mình phải dùng nhiều thì giờ để đập mối hơn là để đọc và viết. Vào một buổi chiều nọ, trong một cơn tuyệt vọng, chúng tôi lấy những tờ báo Newsweek cũ cuộn tròn lại và bắt đầu một cuộc tấn công toàn diện, cương quyết loại trừ từng con mối ra khỏi mái hiên nhà.
Tiền thuê căn nhà này bao gồm cả khoản tiền trả cho một người gác đêm. Khi chúng tôi tung ra cuộc tấn công vào các con mối, người gác đêm bất thình lình xuất hiện bên cạnh mái hiên, tay cầm một cái lon rỗng không. Khi anh ấy hỏi xin lấy những con côn trùng chúng tôi vừa giết chết, chúng tôi hơi sửng sốt nhưng đã niềm nở bảo anh ấy cứ tự nhiên. Anh ấy bước vào mái hiên, nhanh chóng thu nhặt xác những con đã rơi xuống đất, và rồi cùng chúng tôi đuổi theo những con mối còn đang bay. Mặc dù chúng tôi đã trở nên thiện nghệ trong việc dùng các tờ báo cũ cuộn tròn để đập những con côn trùng này, tài nghệ của chúng tôi trở nên lu mờ bên cạnh sự khéo léo của anh gác đêm. Anh ấy chỉ dùng tay để chụp lấy các con mối đang bay trong không khí, bóp nhẹ vào chúng rồi bỏ chúng vào cái lon lúc ấy đang đầy lên một cách nhanh chóng. Ba người chúng tôi đã bắt được hết những con côn trùng bay trong không khí sau khoảng mười phút. Chúng tôi đưa những con mối bắt được cho người gác đêm và anh ấy nhận lấy một cách lịch sự. Sau đó anh ấy trở về vị trí gác của mình và chúng tôi trở về với những cuốn sách của chúng tôi.
Chiều tối hôm sau, chẳng bao lâu sau khi chúng tôi ra ngồi ở chỗ thường ngồi ngoài hiên, người gác đêm xuất hiện ở bực thềm mang theo một cái khay trên có hai cái đĩa đậy kín. Anh ấy giải thích rằng vợ anh ấy đã nấu một món ăn cho chúng tôi để đáp lại việc chúng tôi giúp anh ấy bắt các con mối. Chúng tôi nhận món ăn và cẩn thận mở hai cái nắp đậy ra. Một đĩa thì đựng nyin, một loại bột nhồi đặc làm bằng lúa miến đỏ, món ăn chính của dân địa phương. Đĩa kia đựng một thứ gì sền sệt có màu muối tiêu chen lẫn những chấm luốm đuốm mà chúng tôi đã nhanh chóng suy đoán đó là món ăn làm từ các con mối bị giết đêm trước.
Người gác đêm đứng chờ ở chân bực thềm với một nụ cười chờ đợi trên mặt. Rõ ràng là anh ấy định chờ cho đến khi chúng tôi nếm món quà anh ấy đem lại rồi mới chịu đi. Chúng tôi nhìn nhau. Trước đó chúng tôi chưa bao giờ ăn côn trùng hay xem chúng là món có thể ăn được trong chế độ ăn uống của giới trung lưu ở Bắc Mỹ mà chúng tôi đã quen thuộc. Chắc chắn là những "cao lương mỹ vị" như kiến bọc sôcôla cũng có, nhưng đa số người ở Bắc Mỹ cho đó là những món ăn chỉ dành cho những kẻ lập dị. Tuy vậy, chúng tôi đã hiểu rằng không nên làm sỉ nhục người gác đêm và vợ anh ấy, những người đã rất hào phóng đối với chúng tôi. Qua chương trình học ở nhà trường, chúng tôi đã biết rằng côn trùng là món ăn ưa thích ở nhiều xã hội và đây là một loại thức ăn vô hại. Thấy người gác đêm vẫn còn đứng chờ ở đó, mỉm cười chờ xem chúng tôi sẽ làm gì, chúng tôi thò tay vào đĩa nyiri lấy một miếng nhỏ. Rồi chúng tôi dùng miếng nyiri này để xúc lên một chút patê mối, bỏ cả vào miệng nhai và nuốt. Người gác đêm cười tươi, chúc chúng tôi ngủ ngon và trở về vị trí đứng gác. Chúng tôi nhìn nhau ngạc nhiên thú vị. Món bột lúa miến có một vị hăng hăng dễ chịu, còn món patê mối thì có một vị dìu dịu, tựa như thịt gà, chẳng hề khó chịu tí nào. Về sau chúng tôi viết thư cho gia đình kể lại kinh nghiệm này, và trong thư trả lời của họ, họ cho biết đã kể câu chuyện này cho một người bạn là một nhà nghiên cứu kinh tế gia đình. Người bạn này chẳng hề bày tỏ một sự ngạc nhiên nào cả. Cô ấy chỉ nhận xét rằng mối là một nguồn protein tốt và sạch.

NHÂN HỌC LÀ GÌ ?
Một số yếu tố chủ yếu của ngành nhân học có thể tìm thấy trong giai thoại kể trên. Các nhà nhân học muốn tìm hiểu càng nhiều nếp sống khác nhau của con người càng tốt. Dù đối tượng tìm hiểu của họ là những thành viên trong chính xã hội của họ, hay những người sống ở một lục địa khác, hoặc phải được dựng lại từ vết tích của cuộc sống cách đây hàng trăm hay hàng ngàn năm, nhà nhân học đôi khi gặp phải những tập tục làm họ ngỡ ngàng. Tuy nhiên, khi đã chấp nhận sự rủi ro của việc hiểu biết kỹ hơn những nếp sống như thế, họ thường được đền bù bằng sự thú vị khi khám phá ra những điều quen thuộc. Sự ngạc nhiên do thấy cái xa lạ biến thành cái quen thuộc--cũng như cái quen thuộc biến thành cái xa lạ--là điều mà các nhà nhân học chờ đợi sẽ xảy ra và đây là một trong những cái thú thật sự của ngành học. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ cùng chia xẻ những khía cạnh khác nhau trong kinh nghiệm của ngành học với hy vọng rằng các bạn cũng sẽ tìm thấy được sự thú vị, tri thức, và tự khám phá ra mình bằng việc tham gia vào cái xa lạ.
Nhân học có thể được định nghĩa là một ngành học về bản chất con người, xã hội con người, và quá khứ con người (xem Greenwood và Stini 1977). Đây là một ngành học có mục đích miêu tả thế nào là con người theo một nghĩa rộng nhất có thể có được.
Nhà nhân học không phải là người duy nhất tập trung sự chú ý của mình vào con người và những sản phẩm do con người tạo ra. Sinh vật học về con người, văn học, nghệ thuật, sử học, ngôn ngữ học, xã hội học, chính trị học, kinh tế học - tất cả những ngành học thuật này và nhiều ngành khác - đều tập trung vào khía cạnh này hay khía cạnh khác của đời sống con người. Nhân học là ngành học độc đáo ở chỗ nó sử dụng những khám phá của các ngành khoa học kia và cố gắng kết hợp chúng với những dữ kiện riêng của mình để tìm hiểu xem các yếu tố sinh vật, kinh tế, chính trị, tôn giáo, và thân tộc đã tác động với nhau như thế nào để tạo nên đời sống con người như chúng ta thấy. Điều đó có nghĩa là nhân học là một ngành học toàn diện (holistic); toàn diện là một đặc điểm trung tâm của quan điểm nhân học.
Việc khái quát hóa về bản chất con người, xã hội con người, và quá khứ con người đòi hỏi cứ liệu từ nhiều xã hội khác nhau, càng nhiều càng tốt. Như thế, ngoài tính chất toàn diện, nhân học còn là một khoa học đối chiếu. Ví dụ, sẽ thiếu sót nếu chỉ quan sát xã hội của chính chúng ta và thấy rằng chúng ta không ăn côn trùng rồi kết luận rằng loài người không ăn côn trùng. Khi so sánh chế độ ăn uống của con người trong nhiều xã hội khác nhau, chúng ta thấy rằng ăn côn trùng là điều rất thông thường và nếu người Bắc Mỹ không ăn côn trùng thì đó chẳng qua chỉ là một tập quán ăn uống riêng của xã hội chúng ta mà thôi.
Các nhà nhân học cố gắng đưa ra những khái quát hóa có giá trị qua thời gian và không gian về câu hỏi thế nào là con người. Phạm vi so sánh bao gồm tất cả xã hội loài người và mọi thời kỳ lịch sử của con người, từ khi xuất hiện loài linh trưởng giống người cách đây khoảng năm triệu năm cho đến hiện nay. Vì lý do này, nhân học cũng quan tâm đến quá trình tiến hóa sinh vật học của loài người qua thời gian, bao gồm việc nghiên cứu về nguồn gốc con người và các loại gen và di truyền trong các cộng đồng dân cư hiện nay.
Nếu tiến hóa được hiểu theo nghĩa rộng là sự thay đổi qua thời gian thì xã hội và văn hóa của con người cũng có thể được hiểu là đã tiến hóa từ thời kỳ tiền sử đến nay. Một trong nhũng đóng góp quan trọng nhất của nhân học vào việc nghiên cứu sự tiến hóa của nhân loại là nó đã nhấn mạnh đến những dị biệt quan trọng phân chia giữa tiến hóa sinh vật (liên quan đến những đặc tính và hành vi được truyền qua gen) với tiến hóa văn hóa (liên quan đến những quan niệm và hành vi không được truyền qua gen mà dược truyền qua việc dạy và học). Những chương sau sẽ thảo luận chi tiết hơn về sự khác nhau giữa hai phương thức tiến hóa này; tuy nhiên, chúng tôi muốn nêu lên ở đây rằng loài người, xã hội loài người, và văn hóa loài người tất cả đều thay đổi với thời gian. Vì các nhà nhân học quan tâm đến việc ghi giữ và giải thích những thay đổi này, quan điểm nhân học trong cốt lõi là một quan điểm tiến hóa.

KHÁI NIỆM VĂN HÓA
Một hệ quả của tiến hóa có tác động sâu xa nhất đến bản chất con người và xã hội con người là sự xuất hiện của văn hóa. Văn hóa có thể được định nghĩa là tập hợp những hành vi và quan niệm mà con người học hỏi được với tư cách là thành viên của xã hội. Con người dùng văn hóa để thích ứng với thế giới mà trong đó họ đang sống và để thay đổi nó.
Văn hóa làm cho chúng ta trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật. Con người tùy thuộc nhiều hơn bất cứ loài động vật nào khác vào việc học hỏi để sinh tồn bởi vì chúng ta không có những bản năng tự động bảo vệ chúng ta cũng như tìm thức ăn và chỗ trú ngụ cho chúng ta. Thay vì vậy, chúng ta lại dùng bộ não lớn và phức tạp của mình để học từ những thành viên khác của xã hội những điều cần biết để sinh tồn. Quá trình dạy và học này là trọng tâm chính của thời thơ ấu. Đối với con người, thời kỳ này dài hơn đối với bất kỳ loài động vật nào khác.
Trong nhân học, khái niệm văn hóa là khái niệm trung tâm dùng để giải thích tại sao con người là như chúng ta thấy và tại sao họ làm những điều họ đang làm. Các nhà nhân học đã cho thấy rằng sở dĩ những thành viên của một nhóm xã hội cư xử theo một cách nhất định nào đó là bởi vì họ đã học cư xử theo cách đó, chứ không phải vì hành vi của họ đã được chương trình hóa bởi các gen trong người họ. Thông thường người Bắc Mỹ không ăn côn trùng, nhưng hành vi này không phải là kết quả của một sự chương trình hóa các gen. Đúng ra là người Bắc Mỹ đã học xếp loại côn trùng vào thứ "không ăn được" và tránh ăn chúng. Như chính bản thân chúng tôi đã khám phá ra, người Bắc My có thể ăn côn trùng mà không bị một tác hại nào cả. Như vậy, sự khác nhau này về hành vi xã hội có thể được giải thích bằng những yếu tố văn hóa hơn là bằng những yếu tố sinh vật học.
Điều lý thú là các nhà nhân học đã có thể chỉ ra một cách rõ ràng sức mạnh của văn hóa bởi vì họ cũng hiểu biết về sinh vật học. Những học giả được đào tạo trong cả hai lĩnh vực, và đây là truyền thống của nhiều chương trình dạy nhân học ở Bắc Mỹ, vừa hiểu biết về hoạt động của gen và cơ thể sinh vật vừa có những thông tin đối chiếu về nhiều xã hội loài người khác nhau. Kết quả là họ thực tế hơn trong việc thẩm định sự đóng góp của những yếu tố sinh vật và yếu tố văn hóa vào sự định hình một hành vi nhất định nào đó của con người. Thật vậy, đa số các nhà nhân học không chấp nhận những giải thích nào bắt buộc họ phải chọn lựa giữa nguyên nhân sinh vật và nguyên nhân văn hóa. Thay vì vậy, họ nhấn mạnh rằng con người là một chủng loài sinh vật-văn hóa (biocultural).
Kết cấu sinh vật do gen kiểm soát bao gồm bộ não, hệ thần kinh, và cấu tạo cơ thể làm cho chúng ta trở thành loài sinh vật có thể sáng tạo văn hóa và sử dụng văn hóa. Không có những tính chất thiên bẩm này, văn hóa như cái chúng ta biết sẽ không hiện hữu được. Đồng thời, sự sinh tồn của chúng ta với tính cách là những cơ thể sinh vật lại tùy thuộc vào những truyền thống văn hóa học hỏi được; những truyền thống này giúp chúng ta tìm thức ăn, chỗ ở và người bạn đời cũng như dạy chúng ta cách nuôi nấng con cái. Sở dĩ như vậy là vì những yếu tố sinh vật bẩm sinh dù phong phú cũng không cung cấp được cho chúng ta những bản năng khả dĩ tự lo liệu các nhu cầu sinh tồn này. Cấu tạo sinh học của con người làm cho văn hóa có thể có được; văn hóa của con người làm cho sự tồn tại về mặt sinh học của con người có thể có được.
Các nhà nhân học đôi khi phân biệt giữa Culture (với chữ C viết hoa) và cultures (dùng ở số nhiều với chữ c viết thường). Văn hóa viết hoa được xem là một thuộc tính của nhân loại nói chung--đó là khả năng học hỏi và sáng tạo ra những hành vi và quan niệm để chủng loài có thể tồn tại được như những cơ thể sinh học. Ngược lại, văn hóa viết thường là những truyền thống khác nhau bao gồm những hành vi và quan niệm mà những tập thể người học hỏi được vì họ là thành viên của những xã hội đó. Mỗi truyền thống có thể được gọi là một nền văn hóa riêng, mặc dù biên giới ngăn cách một nền văn hóa này với một nền văn hóa khác thường không dễ xác định.
Mặc dù có thể nói rằng nhân loại nói chung có Văn hóa viết hoa như là một thuộc tính cơ bản, các nhà nhân học và những người khác chỉ tiếp cận được những nền văn hóa cụ thể. Thông thường, nhà nhân học thu thập thông tin về một nền văn hóa nào đó bằng cách tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa đó. Dù sống với một nhóm Fulbe ở bắc Cameroon, khai quật một di chỉ Aztec cổ ở Mexico, hay nghiên cứu sự khác nhau giữa lời nói của nam và nữ ở Alabama, nhà nhân học phải thoát khỏi những quan điểm mà mình đã quen thuộc. Những nhà nhân học nghiên cứu loài hắc tinh-tinh hay gôrila trong rừng hoặc tìm cách dựng lại nếp sống của tổ tiên hóa thạch của con người hiện đại và của loài vượn người là những người đã mở rộng biên giới sự hiểu biết của chúng ta về câu hỏi thế nào là con người.
Kết quả công trình nghiên cứu của họ, như các chương sau sẽ minh họa, thường xuyên đòi hỏi chúng ta phải đánh giá lại những ý niệm thông thường của chúng ta về vấn đề chúng ta là ai. Kinh nghiệm "thực địa" là một phần trung tâm của nhân học hiện đại và đã góp phần quan trọng vào quan điểm học thuật của ngành. Mọi nghiên cứu nhân học đều quay trở về những kinh nghiệm thuộc về tinh thần, tình cảm, và vật chất của những ngày tháng tiếp xúc trực tiếp với một thế giới thường là xa lạ.

MỘT BỘ MÔN LIÊN NGÀNH
Vì mục đích của nhân học là miêu tả thế nào là con người, nội dung của ngành học này hết sức đa dạng. Tại bất cứ cuộc họp thường niên nào của Hội Nhân học Mỹ (American Anthropological Association) (hội chuyên nghiệp quy tụ đa số các nhà nhân học), bạn sẽ thấy có các báo cáo khoa học về những chủ đề như kích thước và hình dạng răng của loài linh trưởng hóa thạch được giả định là tổ tiên của con người hiện đại, các dạng thức hôn nhân và ly dị ở châu Âu, những yếu tố sinh học và xã hội liên quan đến bệnh AIDS ở thế giới thứ ba,hoạt động sản xuất lương thực cổ truyền ở châu Phi, và nghề làm chiếu ở Polynesia. Do tính đa dạng về nội dung học thuật, nhân học khó được xếp vừa vặn vào trong bảng phân loại chuẩn các ngành học thuật. Ngành học này thường được liệt kê là một ngành khoa học xã hội, nhưng nó cũng vươn tới các khoa học tự nhiên và nhân văn nữa.

Nhân học hình thể (Nhân học sinh vật)
Chuyên ngành đầu tiên và sớm nhất trong bộ môn nhân học được gọi là nhân học hình thể (nhân học sinh vật). Vấn đề quan tâm chính của các nhà nhân học hình thể là con người với tư cách là một cơ thể sinh vật. Mục đích của họ là khám phá ra những điểm tương đồng và dị biệt giữa con người và các loài động vật khác.
Vào thế kỷ 19, khi nhân học phát triển thành một ngành học thuật, nhân học hình thể phát triển mạnh. Sự quan tâm đến lãnh vực này là một sản phẩm phụ của nhiều thế kỷ thám hiểm các nơi trên thế giới. Người Tây Âu lúc đó đã chứng kiến sự đa dạng hết sức phong phú về ngoại hình của các dân tộc trên khắp thế giới và đã từ lâu cố gắng tìm một ý nghĩa cho những dị biệt này. Các nhà nhân học hình thể đã sáng chế ra một số kỹ thuật tinh vi để đo những đặc điểm nhân dạng của các cộng đồng cư dân khác nhau, bao gồm màu da, loại tóc, hình dạng cơ thể, vân vân. Mục đích của họ là tìm những chứng cứ khoa học khả dĩ cho phép họ sắp xếp tất cả các dân tộc trên thế giới vào những loại hình dứt khoát và rõ ràng dựa trên các đặc tính sinh học. Những loại hình như thế được gọi là chủng tộc, và nhiều nhà nhân học hình thể tin rằng họ sẽ tìm ra được những tiêu chí dứt khoát rõ ràng để phân loại chủng tộc nếu họ có thể đo lường được một số lượng lớn người từ nhiều nơi khác nhau trên thế giới.
Dĩ nhiên, những nghiên cứu đầu tiên này trong chuyên ngành nhân học hình thể không diễn ra trong một môi trường xã hội và lịch sử trống không. Những dân tộc mà các nhà nhân học hình thể tìm cách phân chia thành các chủng tộc phần lớn là những dân tộc ngoài châu Âu, những dân tộc đang càng lúc càng rơi vào sự thống trị về chính trị và kinh tế của những xã hội tư bản Âu Mỹ đang bành trướng. Những dân tộc này khác với người châu Âu "da trắng" không những do màu da sậm hơn của họ mà còn do ngôn ngữ và phong tục xa lạ của họ, và trong phần lớn các trường hợp, do họ có một nền kỹ thuật không thể sánh với sức mạnh của phương Tây đã công nghiệp hóa.
Kết quả là chủng tộc được coi là yếu tố quyết định chẳng những cho nhân dạng bề ngoài của một tập thể người mà còn cho đặc điểm trí tuệ và tinh thần của họ nữa. Các chủng tộc đã được phân chia thứ bậc dựa trên những đặc điểm này. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người châu Âu và Bắc Mỹ "da trắng" được xem là thượng đẳng, còn các chủng tộc khác thì thấp kém hơn và thuộc nhiều cấp độ khác nhau. Như thế, các nhà nhân học hình thể của thời kỳ đầu đã giúp vào việc phát triển những lý thuyết có thể dùng để biện minh cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc: sự áp bức có hệ thống những thành viên của một hoặc nhiều "chủng tộc" mà sự xác định lại mang tính chất xã hội, bởi một "chủng tộc" khác mà sự xác định cũng mang tính chất xã hội ; sự áp bức này được biện hộ bằng một giả định về tính ưu việt vốn có về mặt sinh học của những người cai trị và giả định về sự thấp kém vốn có về mặt sinh học của những người nằm dưới sự cai trị của họ.
Kỹ thuật nghiên cứu của chuyên ngành nhân học hình thể đã được cải thiện qua thời gian. Các nhà nhân học hình thể đã đo đạc được nhiều đặc điểm bên trong của cơ thể như loại máu chẳng hạn và họ dùng những dữ kiện mới để bổ sung vào những hiểu biết đã có. Họ đã có được một lượng thông tin lớn về sự đa dạng của cơ thể con người; tuy nhiên, họ đã nhận ra rằng những đặc điểm bên ngoài như màu da chẳng hạn, thường được dùng để phân biệt các chủng tộc, lại không có một tương quan chặt chẽ với những đặc điểm sinh học khác của cơ thể. Sự hiểu biết của họ về các thuộc tính sinh học của các cư dân càng nhiều bao nhiêu thì họ càng thấy rằng không hề tồn tại những chủng tộc với một số thuộc tính sinh học chỉ riêng cho chính chúng nó.
Đến đầu thế kỷ thứ 20, một số nhà nhân học và sinh vật học đã kết luận rằng khái niệm "chủng tộc" không phản ánh được sự thực của tự nhiên; thay vì vậy, nó là một nhãn hiệu văn hóa do con người tạo ra để phân chia nhân loại ra thành từng nhóm khác nhau. Chẳng hạn, những nhà nhân học như Frank Boas, người đã thành lập khoa nhân học đầu tiên ở Hoa kỳ vào đầu thập niên 1900, từ lâu đã thấy khó chịu với những phân loại chủng tộc trong nhân học. Boas và sinh viên của ông đã dành nhiều công sức để vạch trần những định kiến chủng tộc, vận dụng kiến thức cả về sinh vật học lẫn văn hóa. Khi ngành nhân học phát triển, sinh viên ở Hoa kỳ được đào tạo cả về lãnh vực sinh vật học lẫn lãnh vực văn hóa để được trang bị một công cụ chống lại những định kiến chủng tộc và dân tộc.
Bác bỏ lối suy nghĩ mang màu sắc chủng tộc của thế kỷ 19, nhiều nhà nhân học hiện đại chuyên nghiên cứu sinh học của con người thích tự gọi mình là nhà nhân học sinh vật. Họ không nghiên cứu "chủng tộc" nữa và thay vào đó họ quan tâm đến những dạng thức dị biệt trong loài người nói chung. Có người truy tìm nhửng tương đồng và dị biệt về mặt hóa học trong hệ thống miễn nhiễm của con người, một xu hướng gần đây đã dẫn đến việc tích cực chống lại bệnh AIDS. Có người nghiên cứu mối tương quan giữa dinh dưỡng và sự phát triển của cơ thể. Thuộc chuyên ngành này còn có những nhà linh trưởng học, những người chuyên nghiên cứu các động vật có họ hàng gần nhất với con người, cũng như có những mhà cổ nhân học, những người tìm tòi dưới mặt đất để kiếm xương và răng hóa thạch của tổ tiên xa xưa nhất của chúng ta. Bằng cách so sánh người hiện đại với các quần thể động vật còn tồn tại hay đã tuyệt chủng, nhà nhân học sinh vật có thể làm sáng tỏ nguyên nhân của sự tương đồng và dị biệt giữa con người và các hình thức sự sống khác.
Dù họ nghiên cứu về sinh học của con người, các loài linh trưởng, hay xương hóa thạch của tổ tiên chúng ta, các nhà nhân học sinh vật đã vay mượn và phát triển các phương pháp và lý thuyết của các khoa học tự nhiên - chủ yếu là sinh vật học, hóa học và địa chất học. Điều làm cho các nhà nhân học sinh vật khác với những đồng nghiệp ngoài ngành của họ là quan điểm toàn diện, đối chiếu và tiến hóa mà họ đã nhận được từ chương trình học của họ. Quan điểm đó nhắc nhở họ luôn luôn xem công việc của mình chỉ là một phần trong sự nghiên cứu toàn diện về bản chất con người, xã hội con người, và quá khứ con người.

Nhân học văn hóa
Chuyên ngành thứ hai trong bộ môn nhân học là nhân học văn hóa, đôi khi còn được gọi là nhân học xã hội-văn hóa, nhân học xã hội, hay dân tộc học. Môt khi các nhà nhân học nhận ra rằng không thể dùng yếu tố sinh học hay chủng tộc để giải thích tại sao mọi người trên thế giới không mặc đồ giống nhau, không nói cùng một ngôn ngữ, không cầu nguyện cùng một thần, không phải ai cũng ăn côn trùng vào bữa ăn tối, họ biết rằng phải có một cái gì khác tạo nên những sự khác biệt này. Họ cho rằng "cái gì khác" này chính là văn hóa: tập hợp những hành vi và quan niệm mà con người học hỏi được với tư cách là thành viên của xã hội. Vì con người khắp mọi nơi dùng văn hóa để thích ứng với thế giới họ đang sống và biến đổi nó, phạm vi của nhân học văn hóa rất là rộng.
Các nhà nhân học văn hóa có khuynh hướng chuyên nghiên cứu một lãnh vực nào đó trong hoạt động văn hóa của con người. Có người nghiên cứu cách xã hội tổ chức thực hiện công việc tập thể trong các lãnh vực hoạt động như kinh tế, chính trị, tinh thần, v.v.... Lãnh vực nghiên cứu này của nhân học văn hóa rất gần với xã hội học và chính từ đây mà người ta xem nhân học là một ngành khoa học xã hội. Sự thật là xã hội học và nhân học đã được phát triển trong cùng một thời kỳ và có những vấn dề quan tâm giống nhau về tổ chức xã hội.
Một yếu tố quan trọng đã phân biệt nhân học với xã hội học là sự quan tâm của nhân học đối với việc so sánh các hình thức khác nhau của đời sống xã hội loài người. Trong khung cảnh phân biệt chủng tộc của xã hội châu Âu và Bắc Mỹ vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, có người đã xem xã hội học là ngành nghiên cứu xã hội công nghiệp "văn minh" và nhân học là ngành nghiên cứu tất cả các xã hội khác, gộp chung lại dưới nhãn hiệu xã hội "nguyên thủy." Nhưng các nhà nhân học hiện đại đã quan tâm nghiên cứu tất cả mọi xã hội loài người, và họ bác bỏ nhãn hiệu "văn minh" và "nguyên thủy" với cùng lý do mà họ đã bác bỏ từ ngữ "chủng tộc." Ngày nay, các nhà nhân học thực hiện việc nghiên cứu của mình trong khung cảnh đô thị cũng như nông thôn trên khắp thế giới và trong tất cả mọi xã hội, gồm cả xã hội của chính họ.
Các nhà nhân học đã nhận thấy rằng nhiều xã hội bên ngoài phương Tây không có hệ thống thư lại, nhà thờ, hay trường học, nhưng họ vẫn tiến hành được một cách thành công mọi hoạt động xã hội vì họ đã phát triển định chế thân tộc, tự tổ chức thành các nhóm xã hội mà tất cả các thành viên đều được coi như "họ hàng" với nhau. Việc nghiên cứu thân tộc đã phát triển rất cao trong ngành nhân học và hiện nay vẫn còn là một trọng điểm nghiên cứu. Ngoài ra, các nhà nhân học đã miêu tả nhiều hình thức tổ chức xã hội không dựa trên thân tộc mà người ta có thể tìm thấy bên ngoài thế giới phương Tây. Những tổ chức này gồm các hội kín, các nhóm tập hợp theo tuổi, và nhiều hình thức tổ chức chính trị khác nhau.
Các nhà nhân học văn hóa đã tìm hiểu các dạng thức đời sống vật chất tìm thấy trong nhiều nhóm cư dân khác nhau. Một trong những điều gây ấn tượng nhất là mức độ dị biệt trên khắp thế giới về trang phục, nhà ở, công cụ cũng như kỹ thuật sản xuất lương thực và chế tạo vật dụng. Một số nhà nhân học đi sâu nghiên cứu kỹ thuật của các xã hội hoặc sự tiến hóa của kỹ thuật qua thời gian. Những nhà nghiên cứu quan tâm đến đời sống vật chất cũng đã miêu tả khung cảnh tự nhiên trong đó các nền kỹ thuật đã phát triển và đã phân tích sự tác động qua lại giữa kỹ thuật và môi trường.
Những nhà nhân học nghiên cứu đối chiếu về ngôn ngữ, âm nhạc, múa, nghệ thuật, thi ca, triết lý, tôn giáo, hay lễ nghi có nhiều mối quan tâm học thuật giống với các chuyên gia trong các ngành mỹ thuật và khoa học nhân văn. Trong tất cả các lĩnh vực này, nghiên cứu về ngôn ngữ con người là một lãnh vực đặc biệt quan trọng trong nhân học văn hóa.

Nhân học ngôn ngữ
Có lẽ nét văn hóa nổi bật nhất của chủng loài chúng ta là ngôn ngữ: hệ thống biểu trưng thanh âm võ đoán của chúng ta dùng để lập mã kinh nghiệm của mình về thế giới và về lẫn nhau. Người ta dùng ngôn ngữ để nói về tất cả mọi khía cạnh trong đời sống, từ vật chất tới tinh thần. Như vậy, ngôn ngữ là một chìa khóa quan trọng cho sự hiểu biết một nhóm người nào đó và nếp sống của họ. Nhân học ngôn ngữ đã phát triển cao và từ lâu được xem là một chuyên ngành riêng trong nhân học. Nhiều nhà nhân học tiên phong là những người đầu tiên lập nên hệ thống chữ viết cho các ngôn ngữ bên ngoài phương Tây cũng như đã tạo dựng ngữ pháp và từ điển. Các nhà nhân học ngôn ngữ hiện đại đã được đào tạo cả về ngôn ngữ học lẫn nhân học, và nhiều nhà nhân học văn hóa cũng đã được đào tạo về ngôn ngữ học và dây là một phần phải có trong sự chuẩn bị chuyên môn của họ. Các nhà nhân học ngôn ngữ tìm cách hiểu ngôn ngữ một cách toàn diện trong tương quan với bối cảnh rộng lớn hơn gồm văn hóa, lịch sử, và sinh học.
Nghiên cứu điền dã Các nhà nhân học văn hóa, dù lãnh vực chuyên môn của họ là gì, thường thu thập tài liệu qua một thời kỳ dài giao tiếp mật thiết với những người có ngôn ngữ hoặc nếp sống mà họ quan tâm nghiên cứu. Thời kỳ nghiên cứu này được gọi là nghiên cứu điền dã, và đặc điểm chính của nó là sự tham gia của nhà nhân học vào công việc hàng ngày của những người họ đang nghiên cứu. Những người chia sẻ thông tin về văn hóa và ngôn ngữ của họ với nhà nhân học từ lâu nay thường được gọi là người thông tin (informant); tuy nhiên, ngày nay các nhà nhân học ít sử dụng từ này hơn trước đây và thích gọi những cá nhân này là những người thầy hoặc người bạn vì những từ ngữ này nhấn mạnh đến mối quan hệ bình đẳng và hỗ tương. Người nghiên cứu điền dã tìm hiểu một nền văn hóa khác bằng cách cùng tham dư vào các hoạt động xã hội với các thành viên của cộng đồng và đồng thời quan sát những hoạt động đó như là một người ngoài cuộc. Phương pháp nghiên cứu này được biết đến dưới tên gọi quan sát-tham dự, là phương pháp chính của nhân học văn hóa __ và là điểm chủ yếu của giao tiếp giữa con người với nhau nói chung.
Nhà nhân học văn hóa viết về những điều họ biết dưới hình thức tạp chí chuyên đề hoặc sách và đôi khi cũng quay phim đời sống của đối tượng nghiên cứu. Từ ngữ ethnography (khảo tả dân tộc học) chỉ một công trình miêu tả một nền văn hóa nào đó; ethnology chỉ việc nghiên cứu so sánh nhiều nền văn hóa. Như vậy, các nhà nhân học viết những khảo tả dân tộc học đôi khi được gọi là ethnographers, và các nhà nhân học so sánh tài liệu dân tộc học về nhiều nền văn hóa khác nhau đôi khi được gọi là ethnologists.

Khảo cổ học
Khảo cổ học, một chuyên ngành lớn khác của nhân học, là một ngành nhân học văn hóa về quá khứ của con người, sử dụng phương pháp phân tích các di tích vật chất. Thông qua khảo cổ học, các nhà nhân học khám phá nhiều điều về lịch sử của con người, đăc biệt là về thời kỳ tiền sử, quãng thời gian dài trước khi có chữ viết. Ngoài kiến thức về nhân học hình thể và văn hóa, nhà khảo cổ học phải có khả năng nhận diện được những hài cốt mà họ phát hiện và giải thích được các di vật khác như các lỗ cột (postholes), những đống rác và mô hình cư trú. Ngoài ra, họ cần biết về địa chất học để có thể xác định đúng thời gian những địa điểm khai quật. Dựa vào vị trí và niên đại của các di chỉ để nghiên cứu, có thể nhà khảo cổ học cũng phải hiểu biết về cách sản xuất công cụ đá,luyện kim, hoặc phân tích phấn hoa.
Những thông tin do nhà khảo cổ học phát hiện là những thông tin có giá trị đối với nhà nhân học hình thể và nhân học văn hóa. Những bộ xương và răng mà nhà khảo cổ học phát hiện có thể dùng vào việc dựng lại quá trình tiến hóa của loài linh trưởng. Những di tích văn hóa vật chất mà họ tìm thấy có thể làm tăng thêm bề dày lịch sử cho những truyền thống văn hóa nào đó và chỉ ra con đường lan truyền của những phát minh văn hóa qua thời gian từ nơi này sang nơi khác. Nếu họ khai quật những di chỉ gần đây hơn _ "gần đây" có nghĩa là trong vòng vài nghìn năm qua _ họ có thể tìm ra chứng cứ của những hệ thống văn tự cổ để các nhà nhân học ngôn ngữ giải mã và phiên dịch. Một số nhà khảo cổ học hiện đại khai quật những lớp rác do con người thải ra trong hai hoặc ba thập niên vừa qua, đôi khi qua đó phát hiện được những thông tin đáng ngạc nhiên về những dạng thức tiêu thụ của thời hiện đại.

Nhân học ứng dụng
Trong những năm gần đây, nhân học ứng dụng dã được công nhận là chuyên ngành lớn thứ năm của bộ môn nhân học. Các nhà nhân học ứng dụng sử dụng thông tin thu thập được từ những chuyên ngành nhân học khác để giải quyết những vấn đề thực tiễn có tính chất liên văn hóa. Họ có thể dùng những quan niệm của một nền văn hóa nào đó về sức khỏe và bệnh tật để phổ biến những tập quán y tế công cộng theo cách mà thành viên của nền văn hóa đó có thể hiểu và chấp nhận được. Có nhà nhân học ứng dụng dùng kiến thức về tổ chức xã hội cổ truyền để làm vơi bớt những vấn đề của người tỵ nạn ở vùng đất mới. Có người dùng kiến thức của mình về phương pháp canh tác cổ truyền và nông nghiệp phương Tây để giúp nông dân tăng sản lượng mùa màng của họ. Trước mối quan tâm ngày càng tăng trên khắp thế giới về ảnh hưởng của văn minh kỹ thuật lên môi trường trái đất, nhân học ứng dụng hứa hẹn sẽ là một phương tiện kết hợp khoa học phương Tây với truyền thống ngoài phương Tây để tạo ra những kỹ thuật mới khả dĩ giảm thiểu sự ô nhiễm và thoái hóa của môi trường. Nhân học ứng dụng còn quá mới mẻ và liên quan đến rất nhiều ngành học khác nhau nên nó chưa trở thành một phần bắt buộc của chương trình đào tạo trên đại học, mặc dù càng lúc càng có nhiều trường đại học ở Hoa kỳ giảng dạy các chương trình thuộc chuyên ngành này.

--
Tác giả: E.A. Schultz và R.H. Lavenda
Người dịch: Phan Ngọc Chiến
Trích từ: E.A. Schultz và R.H. Lavenda. Nhân học - Một quan điểm về tình trạng nhân sinh. NXB Chính trị Quốc gia, 2001
Bản điện tử tại: http://vanhoahoc.edu.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/cac-binh-dien-cua-van-hoa/51-ea-schultz-va-rh-lavenda-nhan-hoc-va-nhan-hoc-van-hoa.html

T.L.H

Video liên quan